Truyện cảnh ngày xuân miêu tả gì
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ da diết:
a. Hai câu đầu: lời giới thiệu về quê hương
- Quê hương của tác giả:
+ Làm nghề chài lưới từ lâu đời.
+ Vị trí địa lí: cách biển nửa ngày sông.
- Giọng thơ: giản dị như một lời trò chuyện tâm tình.
=> Thể hiện nỗi nhớ da diết, thiết tha, trìu mến của tác giả đối với quê hương.
b. Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá (câu 3 – 8)
- Khung cảnh: thông qua những tính từ miêu tả trong, nhẹ, hồng; cảnh hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, tinh khôi, thanh nhẹ.
- Người dân chài hiện lên là những người trẻ khỏe, sung sức. Từ “bơi thuyền” gợi nên tư thế nhẹ nhàng, thảnh thơi phù hợp với khung cảnh lãng mạn ở câu thơ trên.
- Chiếc thuyền đã được miêu tả bằng biện pháp so sánh “như con tuấn mã”. Qua đó ta cảm nhận được khí thế dũng mãnh, hăng hái, hào hùng của con thuyền, được tư thế mạnh mẽ để chiến thắng và vượt qua một không gian rộng lớn.
- Cánh buồm:
+ Hình ảnh lãng mạn, bay bổng.
+ So sánh cái vô hình với cái hữu hình, cụ thể, khiến cánh buồm trở nên vừa có linh hồn (nó gắn bó, thân thiết, thiêng liêng hơn với người dân chài) vừa có hình hài (nó mang vẻ đẹp thanh thoát, mơ mộng, lãng mạn)
- Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá với tình cảm tự hào về sức sống mãnh liệt của làng quê thân thương.
c. Cảnh thuyền cá trở về bến:
- Không khí: ồn ào, tấp nập và niềm vui sướng trước thành quả lao động, niềm biết ơn của những người dân chài lưới với đất trời và với biển. Qua đó thể hiện sự thấu hiểu của tác giả với con người quê hương.
- Hình ảnh dân chài:
“Làn da ngăm rám nắng”
“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
+ Kết hợp hình ảnh lãng mạn và tả thực.
+ Vẻ đẹp khỏe khoắn, dãi dầu mưa nắng.
+ Chất mặn mòi xa xăm của biển thấm vào hơi thở, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, ngang tàng.
- Hình ảnh con thuyền: “Im bến mỏi trở về nằm”, “nghe chất muối thấm dần”.
+ Con thuyền được nhân hóa như những người dân chài lưới đang trong trạng thái nghỉ ngơi, thảnh thơi sau một ngày lao động vất vả.
+ Con thuyền như một cơ thể sống đang cảm nhận được bằng tâm hồn mình chất biển mặn mòi trong tâm hồn (vị mặn ấy cũng ngấm vào hơi thở con người).
=> Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ cho nên giàu chất thơ, lãng mạn và tươi sáng.
2. Khẳng định lại nỗi nhớ quê hương.
- “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”: Hiện tại, tác giả đang sống xa quê hương, nhưng luôn thường trực trong lòng một nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi.
- Nỗi nhớ độc đáo ở chỗ:
+ Có hình hài “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi”.
+ Có hương vị “mùi nồng mặn”, nó đã trở thành một ám ảnh da diết.
1. Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ da diết:
a. Hai câu đầu: lời giới thiệu về quê hương
- Quê hương của tác giả:
+ Làm nghề chài lưới từ lâu đời.
+ Vị trí địa lí: cách biển nửa ngày sông.
- Giọng thơ: giản dị như một lời trò chuyện tâm tình.
=> Thể hiện nỗi nhớ da diết, thiết tha, trìu mến của tác giả đối với quê hương.
b. Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá (câu 3 – 8)
- Khung cảnh: thông qua những tính từ miêu tả trong, nhẹ, hồng; cảnh hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, tinh khôi, thanh nhẹ.
- Người dân chài hiện lên là những người trẻ khỏe, sung sức. Từ “bơi thuyền” gợi nên tư thế nhẹ nhàng, thảnh thơi phù hợp với khung cảnh lãng mạn ở câu thơ trên.
- Chiếc thuyền đã được miêu tả bằng biện pháp so sánh “như con tuấn mã”. Qua đó ta cảm nhận được khí thế dũng mãnh, hăng hái, hào hùng của con thuyền, được tư thế mạnh mẽ để chiến thắng và vượt qua một không gian rộng lớn.
- Cánh buồm:
+ Hình ảnh lãng mạn, bay bổng.
+ So sánh cái vô hình với cái hữu hình, cụ thể, khiến cánh buồm trở nên vừa có linh hồn (nó gắn bó, thân thiết, thiêng liêng hơn với người dân chài) vừa có hình hài (nó mang vẻ đẹp thanh thoát, mơ mộng, lãng mạn)
- Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá với tình cảm tự hào về sức sống mãnh liệt của làng quê thân thương.
c. Cảnh thuyền cá trở về bến:
- Không khí: ồn ào, tấp nập và niềm vui sướng trước thành quả lao động, niềm biết ơn của những người dân chài lưới với đất trời và với biển. Qua đó thể hiện sự thấu hiểu của tác giả với con người quê hương.
- Hình ảnh dân chài:
“Làn da ngăm rám nắng”
“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
+ Kết hợp hình ảnh lãng mạn và tả thực.
+ Vẻ đẹp khỏe khoắn, dãi dầu mưa nắng.
+ Chất mặn mòi xa xăm của biển thấm vào hơi thở, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, ngang tàng.
- Hình ảnh con thuyền: “Im bến mỏi trở về nằm”, “nghe chất muối thấm dần”.
+ Con thuyền được nhân hóa như những người dân chài lưới đang trong trạng thái nghỉ ngơi, thảnh thơi sau một ngày lao động vất vả.
+ Con thuyền như một cơ thể sống đang cảm nhận được bằng tâm hồn mình chất biển mặn mòi trong tâm hồn (vị mặn ấy cũng ngấm vào hơi thở con người).
=> Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ cho nên giàu chất thơ, lãng mạn và tươi sáng.
2. Khẳng định lại nỗi nhớ quê hương.
- “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”: Hiện tại, tác giả đang sống xa quê hương, nhưng luôn thường trực trong lòng một nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi.
- Nỗi nhớ độc đáo ở chỗ:
+ Có hình hài “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi”.
+ Có hương vị “mùi nồng mặn”, nó đã trở thành một ám ảnh da diết.
viết một bài văn nghị luận xã hôi ko qua 1500 từ về đạo đức của học sinh ngày nay (nghị luận xã hôi)
Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai giảng năm học mới, Bác Hồ từng viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay ko,dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các em”. Học tập và rèn luyện là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của người học sinh. Chỉ có học tập, chúng ta mới trở thành những con người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Khi xưa, anh hùng Lý Tự Trọng từng nói: “Con đường của học sinh chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác!”. Nếu như trong thời chiến, lẽ sống của người học sinh là vì lý tưởng, vì đất nước thì nay, khi cuộc sống đã hòa bình, nhiệm vụ thiết yếu nhất của chúng ta là học tập và rèn luyện. Lê- nin có một câu châm ngôn nổi tiếng rằng: “Học, học nữa, học mãi”. Học tập trong bất kì thời đại nào cũng vô cùng quan trọng. Nhờ có học tập, chúng ta mới có thể tích lũy thêm kiến thức, làm đầy những khiếm khuyết của bản thân, tự hoàn thiện chính mình. Học tập đồng nghĩa với việc chúng ta đang từng bước chinh phục biển tri thức rộng lớn, mênh mông của nhân loại. Với vốn tri thức tích lũy được, nó sẽ là hành trang quý giá để ta vững bước vào tương lai, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn thử thách của cuộc đời. Đặc biệt, trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như hiện nay, nếu không học tập, chúng ta sẽ không thể theo kịp bước tiến của thời đại, mãi mãi chỉ là những con người nghèo nàn, lạc hậu. Học tập cũng là cách giúp ta nâng cao vị thế, tự khẳng định giá trị của bản thân. Bằng chứng là có rất nhiều các bạn học sinh tuy trẻ tuổi nhưng đã đạt được những thành tích cao trên các đấu trường quốc tế, đưa cái tên Việt Nam vang lên đầy tự hào, sánh vai với các cường quốc khác trên thế giới. Không chỉ học ở trường, trong sách vở, chúng ta còn cần phải học ngoài thực tế, bởi lẽ: “Lí thuyết chỉ là màu xám còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”.
Bác Hồ cũng từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Song song với việc tích lũy kiến thức, chúng ta còn cần rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để trở thành người vừa có đức vừa có tài. Là con người trong thời đại mới, người học sinh cần phải có thái độ tích cực, chăm chỉ, khiêm tốn trong mọi việc, tuân thủ kỉ cương, luật lệ, đoàn kết trong tập thể... Đó là những hành trang cần thiết và vững bền để chúng ta bước vào thế kỉ mới- nơi có môi trường cạnh tranh, đào thải vô cùng khắc nghiệt. Hướng về tương lai nhưng chúng ta cũng cần biết ơn và trân trọng quá khứ, thực hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn, thương người như thể thương thân của dân tộc, sống chan hòa, nhân ái với mọi người xung quanh.
Tuy nhiên, thực tế đáng buồn hiện nay, chúng ta vẫn có những bạn học sinh lười biếng, không tích cực học tập và rèn luyện. Các bạn không có một mục đích sống cụ thể, sống hoài, sống phí những năm tháng tươi đẹp của cuộc đời. Nếu không thay đổi, trong tương lai, họ sẽ sớm bị đào thải, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Với xu thế hội nhập như ngày hôm nay, mỗi người học sinh cần xác định rõ ràng về nhiệm vụ học tập và trách nhiệm rèn luyện của chính bản thân mình. Nó sẽ là vốn liếng quý báu để chúng ta trở thành công dân toàn cầu, góp phần đưa quê hương, đất nước phát triển hơn nữa
Con đường đi tới thành công không phải là con đường được trải thảm đỏ với đầy hoa hồng mà luôn tiềm ẩn những chông gai, thử thách. Con người muốn thành công cần có cách thức và phương pháp phù hợp để tích lũy cho mình cơ hội, vượt qua những khó khăn. Một trong những phương pháp hiệu quả nhất mà rất nhiều người lựa chọn là tự học.
Vị lãnh tụ vĩ đại Lênin có câu: "Học, học nữa, học mãi". Không một ai có thể thành công mà không học tập. Học là tiếp thu tri thức, nâng cao vốn hiểu biết. Có nhiều phương pháp, hình thức để tiếp thu tri thức: Học ở trường, học từ những người xung quanh...và tự học. Tự học là chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng cho bản thân. Tự học là tự mình tìm hiểu nghiên cứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ năng mà không cần sự hướng dẫn, nhắc nhở hay ép buộc của người khác.
Vì sao cần tự học? Tự học sẽ mang lại cho chúng ta điều gì?
Kho tàng tri thức của nhân loại là vô cùng vô tận, không phải ngày một ngày hai là có thể tiếp thu hết. Việc học tập ở trường chỉ cung cấp cho ta một lượng tri thức rất nhỏ trong kho tàng khổng lồ ấy. Chính vì vậy, muốn tiếp thu được nhiều hơn, chúng ta cần tự mình chiếm lĩnh. Tự học là phương pháp hữu ích nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Tự học sẽ đem đến cho mỗi cá nhân rất nhiều lợi ích và hứng thú. Tự học giúp ta lĩnh hội tri thức một cách chủ động, chủ động học tập nghiên cứu, chủ động lí thời gian cá nhân, đi sâu vào khai thác những vấn đề mà bản thân có khả năng hoặc cảm thấy tâm đắc. Tự học giúp ta khám phá thêm những tri thức mới đồng thời làm phong phú thêm những kiến thức đã có, làm tăng vốn sống và khả năng hiểu biết. Từ đó phát triển khả năng độc lập trong tư duy, hành động. Người có phương pháp và chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức sẽ thích nghi cao, linh hoạt trong mọi tình huống, hoàn cành. Họ làm chủ được suy nghĩ và cuộc sống của chính mình.
Chủ động tìm hiểu tri thức, bản thân sẽ ghi nhớ lâu hơn và vận dụng được tri thức đó vào thực tiễn một cách hữu ích hơn. Không những thế, tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Người có ý thức tự học biết tự nhận thức ưu nhược điểm của mình, tự khắc phục và tự hoàn thiện bản thân.
Ta có thể tự học ở mọi lúc mọi nơi. Tự học kiến thức từ sách vở, mạng Internet như rất nhiều người đã tự học ngoại ngữ thành công. Như Hồ chủ tịch vĩ đại, ngay cả khi đang đi tìm đường cứu nước, trên một con tàu Người cũng tự mình học được hơn hai mươi thứ tiếng. Các nhà khoa học như Edison, Faraday, Mendel cũng là tấm gương sáng cho tinh thần tự học. Nhờ tự học, họ đã cống hiến cho nhân loại rất nhiều phát minh vĩ đại. Đặc biệt, khi tự học chúng ta có thời gian đào sâu nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề mình tâm đắc, phát triển khả năng phát hiện và tư duy lô-gic sáng tạo. Trong quá trình tự chiếm lĩnh tri thức, ta sẽ tìm thấy đam mê của mình đối với lĩnh vực nào đó. Hứng thú sẽ được tạo ra khi con người ta làm thứ mà mình yêu thích. Việc học tập nhờ vậy cũng trở nên hấp dẫn và thú vị hơn rất nhiều.
Tự học là phương pháp tối ưu nhất để hoàn thiện bản thân, biến ước mơ thành hiện thực. Người có tinh thần tự học luôn chủ động cuộc sống. Chủ động lĩnh hội, chủ động sáng tạo, họ sẽ tạo lập cho mình tư duy nhạy bén linh hoạt ứng phó trước bất ngờ và tự tin thể hiện bản thân.
Tuy nhiên, tự học không phải điều mà ai cũng dễ dàng làm được. Làm thế nào để tự học hiệu quả nhất? Tự học là cả một quá trình, muốn tự học tốt, trước tiên, bạn phải xác định cho mình một mục tiêu rõ ràng, kiên trì và quyết tâm thực hiện nó. Rèn tính chủ động, tự giác trong mọi hoàn cảnh. Chủ động tìm kiếm tri thức, nghiên cứu và chiếm lĩnh nó mà không chờ đợi, phụ thuốc vào người khác. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tự tách biệt mình và từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác. Cần lắng nghe và tiếp thu những điều mình chưa biết, chưa rõ để việc tự học đạt hiệu quả cao hơn.
"Tri thức là sức mạnh" nhưng không phải cây quyền trượng toàn năng, lý thuyết phải đi đôi với thực hành. Khi đã chiếm lĩnh được tri thức, chúng ta phải dám thể hiện nó, ứng dụng nó vào thực tiễn. Suy cho cùng, đích đến cuối cùng là cải tạo thực tiễn. Nếu chỉ tự học mà không vận dụng, việc tự học sẽ trở nên vô nghĩa.
Kết hợp linh hoạt giữa tự học và những phương pháp học khác để đạt được thành công. Đồng thời, tự học một cách có chọn lọc.
Hãy chủ động và xây dựng cho mình nền tảng tri thức, kỹ năng vững chắc. Học để thành tài, và học để làm người. Học những bài học tri thức và học cả những bài học đạo lý nhân sinh. Thay vì học tủ, học vẹt, học bị động như một số cá nhân hiện nay, hoàn toàn phụ thuộc mà không biết ứng biến, xử lý linh hoạt, hãy lựa chọn cho mình phương pháp học hiệu quả.
"Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng". Kiên trì và quyết tâm tự học, một ngày không xa, thành công nhất định sẽ mỉm cười với bạn.
Nguồn : https://download.vn/nghi-luan-xa-hoi-ve-van-de-tu-hoc-37426
Đọc truyện ngắn "Làng" người đọc rất ấn tượng về nhân vật ông Hai là người dân hiền lành, cần cù, chăm chỉ, chất phác và có tình yêu dành cho làng chợ Dầu luôn bùng cháy mãnh liệt. Khi chiến tranh xảy ra ông phải đi tản cư " tẩn cư âu cũng là kháng chiến" ông nhớ làng, khoe về làng đẹp, giàu: nhà ngói san sát, xầm uất. Ông vui, tự hào, hãnh diện về làng. Ông còn khoe cả cái sinh phần của viên tổng đốc mà không nhận ra viên tổng đốc là kẻ thù của mình. Ánh sáng cách mạng đã soi rọi tới cuộc đời tăm tối của ông để biết ai là kẻ thù để ông không còn khoe về nó nữa. Ông từng tham gia xây dựng những công trình kháng chiến: đào đường, đắp u, xẻ hào... những công việc vất vả nhưng ông tham gia với tinh thần hăng say, vui vẻ, trách nhiệm. Tình yêu làng quê của ông Hai không chỉ thể hiện bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể người nông dân ấy sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Tình yêu làng quê đã hòa quyện trong tình yêu nước. Ông Hai có thói quen là đến phòng thông tin niềm vui sướng khi nghe được tin chiến thắng của quân ta dù có nhỏ nhưng với suy nghĩ "tích tiểu thành đại làm gì mà thằng Tây chả bước sớm". Những suy nghĩ ấy của người nông dân về kẻ thù khi còn rất đơn giản nhưng nó cũng thể hiện niềm tin nhất định thành công của cách mạng. Đó chính là nhận thức tư tưởng mới của ông Hai khi có ánh sáng cách mạng.
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính (7 câu thơ đầu)
a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân
(4 câu thơ đầu)
- Xuất thân từ những miền quê nghèo:“Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua” gợi lên những miền đất chiêm trũng, những vùng ngập mặn
+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” lấy ý từ câu tục ngữ “chó ăn đá, gà ăn sỏi” gợi lên những vùng trung du đồi núi thiếu nước, cằn cỗi.
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, lời thơ dân giã mộc mạc
à Anh và tôi đều là những người nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi.
- Gặp nhau tình cờ ngẫu nhiên: “Anh với tôi đôi người xa lạ /Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
+ Anh và tôi ở hai câu thơ trên đứng tách hai dòng khác biệt, tới đây đứng ngang hàng: biểu thị sự gần gũi và gắn kết.
+ “Đôi người xa lạ” (So sánh “đôi” với “hai”): kéo gần khoảng cách thân quen.
+ Chẳng hẹn quen nhau: nhấn mạnh sự tình cờ. Tình cờ chính là cơ duyên tốt nhất cho mọi sự gắn kết.
à Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen gắn bó với nhau. Cơ sở đầu tiên hình thành tình cảm đó là sự đồng cảm về giai cấp. Họ là những người nông dân áo lính, họ như thấu hiểu những nỗi khổ của nhau, thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau ngay từ lần đầu gặp gỡ.
b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” biểu tượng cho chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lí tưởng. Họ chiến đấu với lý tưởng bảo vệ Tổ Quốc.
- Nhịp thơ 3/3 tạo nên thế sóng đôi, một bên là anh, một bên là tôi, hai người cùng một nhịp, chung một phách luôn sát cánh bên nhau để thực hiện lý tưởng.
à Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
- Hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, thiếu quân trang
- Hình ảnh giản dị, gợi cảm “chung chăn” “đôi tri kỉ”: sự chia sẻ với nhau những thiếu thốn.
à Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau, cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan. Đó là cơ sở nữa để tình đồng chí càng thêm gắn bó.
d. Tình đồng chí được gắn kết thiêng liêng ở câu thơ “Đồng chí”
- Cấu trúc câu thơ đặc biệt, tạo điểm nhấn cho cả bài, kết cấu bó mạ.
- Nơi kết tinh của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng. Trước câu thơ này, họ là những người xa lạ gặp nhau, có chung mục đích, chia sẻ nhau những khó khăn vật chất ban đầu sau câu thơ này, họ trở thành những người đồng chí thân thương, có thể chia sẻ với nhau mọi điều. Câu thơ khép lại nhưng mở ra những chân trời xúc cảm khác về sự thấu hiểu, gắn kết của tình đồng chí.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí
a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau
- Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.
- “Mặc kệ” à Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa: “Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”.
- Hình ảnh “ruộng nương”, “gian nhà không” gợi về quê hương, về những người còn lại ở quê hương. Đặc biệt “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.
- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.
- Mùa xuân đất nước đã khơi dậy trong lòng nhà thơ những khát vọng sống cao quý:
“Ta làm…
… xao xuyến”
+ Điệp từ “ta làm”, lặp cấu trúc, liệt kê -> giúp tác giả bày tỏ ước nguyện được hiến dâng cuộc đời mình cho quê hương, xứ sở.
+ Các h/a “con chim hót” “một cành hoa” “nốt nhạc trầm”: giản dị, tự nhiên mà đẹp, thể hiện ước nguyện khiêm nhường mà đáng quý.
+ Có sự ứng đối với các h/a ở đầu bài thơ -> lí tưởng cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên, tất yếu; gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người – đất nước.
=> Tấm lòng thiết tha được hòa nhập, được cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.