K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(1.0 điểm) Chỉ ra và nêu tác dụng của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong những câu văn sau: Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Bài đọc: SAO SÁNG LẤP LÁNH Nguyễn Thị Ấm        Đó là năm 1972.        Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Chỉ ra và nêu tác dụng của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong những câu văn sau: Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi.

Bài đọc:

SAO SÁNG LẤP LÁNH

Nguyễn Thị Ấm

       Đó là năm 1972.

       Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:

       – Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.

       Cả tiểu đội nhao nhao:

       – Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?

       Minh gãi đầu buồn bã:

       – Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.

       – Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?

       – Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.

       – Người yêu làm nghề gì?

       – Học sinh trường múa Việt Nam.

       – Trời!

       Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:

       – Tên là gì?

       – Tên là Hạnh.

       – Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.

       Minh lại cười cười.

       – Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.

       Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:

       – Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?

       Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:

       – Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?

       Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:

       – Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.

       Cô gái cười giòn:

       – Không… không phải trả tiền đâu.

       Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.

       Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.

       Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.

       Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:

       – Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.

       Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:

       – Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.

       Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:

       – Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?

       Minh cố cười:

       – Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…

       Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:

       – Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…

       Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.

       Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.

       Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.

 (Theo isach.infor)

* Tác giả, tác phẩm

Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…

0
(0.5 điểm) Hình ảnh nào của nhân vật Hạnh để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho Minh và đồng đội của anh? Bài đọc: SAO SÁNG LẤP LÁNH Nguyễn Thị Ấm        Đó là năm 1972.        Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Hình ảnh nào của nhân vật Hạnh để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho Minh và đồng đội của anh?

Bài đọc:

SAO SÁNG LẤP LÁNH

Nguyễn Thị Ấm

       Đó là năm 1972.

       Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:

       – Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.

       Cả tiểu đội nhao nhao:

       – Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?

       Minh gãi đầu buồn bã:

       – Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.

       – Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?

       – Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.

       – Người yêu làm nghề gì?

       – Học sinh trường múa Việt Nam.

       – Trời!

       Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:

       – Tên là gì?

       – Tên là Hạnh.

       – Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.

       Minh lại cười cười.

       – Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.

       Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:

       – Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?

       Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:

       – Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?

       Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:

       – Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.

       Cô gái cười giòn:

       – Không… không phải trả tiền đâu.

       Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.

       Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.

       Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.

       Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:

       – Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.

       Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:

       – Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.

       Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:

       – Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?

       Minh cố cười:

       – Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…

       Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:

       – Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…

       Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.

       Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.

       Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.

 (Theo isach.infor)

* Tác giả, tác phẩm

Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…

0
(0.5 điểm) Xác định ngôi kể của người kể chuyện. Bài đọc: SAO SÁNG LẤP LÁNH Nguyễn Thị Ấm        Đó là năm 1972.        Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Xác định ngôi kể của người kể chuyện.

Bài đọc:

SAO SÁNG LẤP LÁNH

Nguyễn Thị Ấm

       Đó là năm 1972.

       Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu… Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:

       – Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp… Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.

       Cả tiểu đội nhao nhao:

       – Ảnh đâu!… Đưa ra đây xem nào?

       Minh gãi đầu buồn bã:

       – Các vị quên à?… Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.

       – Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?

       – Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ.

       – Người yêu làm nghề gì?

       – Học sinh trường múa Việt Nam.

       – Trời!

       Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:

       – Tên là gì?

       – Tên là Hạnh.

       – Làm quen… Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.

       Minh lại cười cười.

       – Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.

       Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bùng cất tiếng nói: “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm, tớ được tranh thủ về thăm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tò mò muốn xem cô có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:

       – Xin lỗi!… Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?

       Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé tiến lại. Cô lấy tiền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm… Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng mười lăm bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, tớ cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:

       – Anh bộ đội… Tại sao anh lại đi theo em?

       Tớ cười, gãi đầu, ấp úng:

       – Tôi… tôi… muốn biết nhà… để trả tiền.

       Cô gái cười giòn:

       – Không… không phải trả tiền đâu.

       Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, bước đi như người say rượu.

       Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái, tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời… Và chúng tớ yêu nhau…”.

       Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời... mà không ngủ được.

       Sáu tháng sau, một đêm tháng Mười, tôi và Minh được phái đi trinh sát cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng băng ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:

       – Anh!… Để em xuống đi… Em không sống được nữa đâu.

       Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:

       – Anh chôn em tại đây… Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.

       Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:

       – Thế!… Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh?

       Minh cố cười:

       – Chuyện… chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…

       Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:

       – Em có một lá thư… ở trong túi áo ngực. Bao giờ hoà bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…

       Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội vã bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ liêu xiêu: “Hạnh ơi!… Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.

       Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi theo đoàn quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thư tôi viết: Gửi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.

       Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng… lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.

 (Theo isach.infor)

* Tác giả, tác phẩm

Nhà văn Nguyễn Thị Ấm, quê ở Long An, sinh sống, làm việc và viết văn tại Hà Nội. Đây là một trong những cây bút nữ tiêu biểu xuất hiện trong giai đoạn đổi mới của nền văn học Việt Nam (1986). Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ấm: Giấc ngủ nơi trần thế, Sao sáng lấp lánh, Người đến từ phía cánh rừng, Tự do cho một kiếp người,…​

0
4 tháng 2

Đặt α : 1+2=3

Đặt β: 13+45=58

Đặt ⊂: 32+43=75

Bài tập:Thuật lại sự kiện Lễ khai giảng năm học                                   Hướng dẫn 1,Mở bài: Nêu tên sự kiện:Lễ khai giảng năm học Thời gian xảy ra sự kiện:ngày 5 tháng 9 năm.......... 2,Thân bài: -Lễ khai giảng của năm học mưới gần đây nhất(ngày 5 tháng 9 năm..........) thời gian của buổi lễ(Sáng chiều) địa điểm. -Diễn biến của buổi lễ:những người tham gia,không khí buổi lễ,trang...
Đọc tiếp

Bài tập:Thuật lại sự kiện Lễ khai giảng năm học

                                  Hướng dẫn

1,Mở bài:

Nêu tên sự kiện:Lễ khai giảng năm học

Thời gian xảy ra sự kiện:ngày 5 tháng 9 năm..........

2,Thân bài:

-Lễ khai giảng của năm học mưới gần đây nhất(ngày 5 tháng 9 năm..........) thời gian của buổi lễ(Sáng chiều) địa điểm.

-Diễn biến của buổi lễ:những người tham gia,không khí buổi lễ,trang trí lễ đài,trang phục của thầy giáo,học sinh,đại biểu.

-Thứ tự các hoạt động trong buổi lễ:

+Đón các vị địa biểu

+Đón các em học sinh mới

+Chào cờ

+Nghe thư của Bác Hồ gửi cho học sinh

+Phát biểu của thầy(cô) Hiệu trưởng các các đại biểu

+Biểu diễn văn nghệ

3,Kết bài:

-Kết thúc sự kiện và nêu ý nghĩa của sự kiện

Các bạn ơi giúp mình với ạ,mình đang cần gấp!!!!!!

0
I. Đọc hiểu  Câu 9. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau và nêu tác dụng.  "Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con." Câu 10. Bằng một đoạn văn (5 - 7 câu), em hãy nêu suy nghĩ và hành động mà mỗi người cần có trước nghịch cảnh. Bài đọc: Sự tích quả dưa hấu         Thuở xưa,...
Đọc tiếp

I. Đọc hiểu 

Câu 9. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau và nêu tác dụng. 

"Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con."

Câu 10. Bằng một đoạn văn (5 - 7 câu), em hãy nêu suy nghĩ và hành động mà mỗi người cần có trước nghịch cảnh.

Bài đọc:

Sự tích quả dưa hấu 

       Thuở xưa, thời vua Hùng Vương, nước ta có núi cao, sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là Mai An Tiêm. Chàng có tài tháo vát và có trí hơn người.

       Vua yêu mến Mai An Tiêm nên thường ban cho của ngon vật quý. Thói thường, các quan được một chút lộc vua thì nâng niu ca tụng; riêng An Tiêm bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai vua, vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương ra không?".

       Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo gì hết. Chàng nói mãi chúng mới cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, dấu vết của dân cư cũng không còn nữa, bây giờ chỉ thấy trời với nước xanh ngắt một màu.

       Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm, bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa.

       An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chát chua và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra bờ biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim.

       Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé không bắt được gì. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông là bao. Tuy vậy, An Tiêm vẫn tin rằng một ngày kia, mình có thể làm cho đời sống khá lên.

       Một hôm có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi, bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì là một mảnh quả bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm: "Chim ăn được có lẽ người cũng ăn được". Chàng bèn ăn thử thì thấy có vị ngọt và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống.

       Ít ngày sau, mấy hạt đã mọc mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc dây của quả lạ. Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.

       Một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng:

       – Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào!

       An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay đi bỏ lại quả chúng vừa mổ thủng vài chỗ. Chàng cắt quả về. Khi chàng bổ ra, cả nhà lóa mắt vì màu đỏ tươi của ruột quả. Đây đó giữa màu đỏ, có những hạt đen như hạt huyền. Hai đứa bé thèm nhỏ nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt.

       An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ, ăn vào không những không xót ruột mà còn thấy đỡ khát và khỏe người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả cho con ăn đến no.

       Bấy giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm màu đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ trồng thêm quả. Tất cả nông cụ chỉ gồm có một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén. Vì vậy, thêm một gốc quả là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy, giống quả càng ngày càng sai, càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt.

       Cứ mỗi lần hái quả, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Quả trôi biệt tăm không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống quả quý để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá.

       Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm.

       An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.

       Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, vì nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.

(Sưu tầm)

1
12 tháng 3

9."Vợ chồng hồi hộp trông những bông hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con."

10.trong cuộc sống, ai cũng có cái riêng của mình. Thật vậy, mỗi người đều có một cuộc sống riêng, một hành trình riêng, một tương lai và mọi thứ khác với những người còn lại
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/viet-doan-van-khoang-5-7-cau-trinh-bay-suy-nghi-cua-em-ve-van-de-ai-cung-co-cai-rieng-cua-minh-a94686.html