Giải thích tại sao Hà Nội cuối mùa Đông lạnh ẩm
Giải thích tại sao Hà Nội cuối mùa Đông lạnh ẩm
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thông tin về biến động diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1943 đến 2020 có thể khá khó khăn vì dữ liệu chính xác và đầy đủ không luôn có sẵn. Tuy nhiên, dữ liệu thống kê cho thấy sự giảm diện tích rừng tự nhiên tại Việt Nam trong suốt nhiều năm.
Trong giai đoạn 1943-1975, Việt Nam trải qua nhiều thách thức về môi trường do chiến tranh và các hoạt động khai thác lâm sản không bền vững. Điều này đã dẫn đến sự suy giảm của diện tích rừng tự nhiên.
Từ những năm 1980 đến 2010, Việt Nam đã thực hiện các chính sách và biện pháp bảo vệ môi trường và rừng tự nhiên. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục có sự giảm diện tích rừng do mở rộng đất đai cho nhu cầu phát triển kinh tế, lâm nghiệp, và các hoạt động khác.
Giai đoạn từ năm 2010 đến 2020, có một số nỗ lực cải thiện quản lý rừng và tái sinh rừng, nhưng vẫn còn đối mặt với thách thức từ sự phá rừng và biến đổi khí hậu.
Tóm lại, trong nhiều giai đoạn, Việt Nam đã gặp phải sự giảm diện tích rừng tự nhiên. Các nỗ lực bảo vệ môi trường và tái tạo rừng đang được triển khai, nhưng vẫn còn nhiều thách thức cần vượt qua để duy trì và phục hồi diện tích rừng tự nhiên của quốc gia.
ản Hồng là một xã nằm ở phía tây huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Địa hình của xã chủ yếu là đồi núi thấp, có độ cao trung bình khoảng 200-300m. Khoáng sản chính ở Tản Hồng là đá vôi, được phân bố khá rộng rãi ở nhiều khu vực trong xã. Đá vôi ở Tản Hồng có chất lượng tốt, được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như xây dựng, sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng,...
Ngoài đá vôi, Tản Hồng còn có một số loại khoáng sản khác như:
Than bùn: được phân bố ở khu vực phía nam xã, có trữ lượng khoảng 1 triệu tấn. Than bùn ở Tản Hồng được sử dụng làm nhiên liệu, phân bón,...
Cao lanh: được phân bố ở khu vực phía bắc xã, có trữ lượng khoảng 500.000 tấn. Cao lanh ở Tản Hồng được sử dụng trong sản xuất gốm sứ, gạch ngói,...
Đất sét: được phân bố ở nhiều khu vực trong xã, có trữ lượng khá lớn. Đất sét ở Tản Hồng được sử dụng trong sản xuất gạch ngói, gốm sứ,...
Khí hậu
Tản Hồng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,5oC. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.500mm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình năm khoảng 400mm.
Thủy văn
Tản Hồng có hệ thống sông suối khá dày đặc, với nhiều con sông lớn như sông Tản Đà, sông Thao, sông Đà,... Sông suối ở Tản Hồng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt của người dân và phát triển thủy điện.
Kết luận
Khoáng sản, khí hậu, thủy văn là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Tản Hồng. Với tiềm năng khoáng sản phong phú, khí hậu thuận lợi và hệ thống sông suối dày đặc, Tản Hồng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch,...
Bạn dậy sớm thế
- Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có sự phân hóa theo mùa và theo đai cao ở nước ta đã tác động trực tiếp đến sự hình thành các điểm du lịch, loại hình du lịch, mùa vụ du lịch…
+ Ở các khu vực đồi núi, sự phân hoá khí hậu theo độ cao tạo điều kiện phát triển các loại hình du lịch như nghỉ dưỡng, tham quan… Các vùng núi cao có khí hậu mát mẻ quanh năm, không khí trong lành là cơ sở để tạo nên các điểm du lịch, như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Bà Nà (Đà Nẵng), Đà Lạt (Lâm Đồng),…
+ Sự phân hoá của khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam ảnh hưởng đến mùa vụ du lịch của hai miền. Các hoạt động du lịch biển ở miền Bắc hầu như chỉ diễn ra vào mùa hạ còn ở miền Nam có thể diễn ra quanh năm.
- Các hiện tượng thời tiết như mưa lớn, bão,... là trở ngại đối với hoạt động du lịch ngoài trời.
+ Nhiều thiên tai thường xuyên xảy ra (bão, lũ lụt, hạn hán, gió Tây khô nóng, sương muối,...) gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. + Khí hậu nóng ẩm tạo điều kiện cho sâu bệnh, dịch bệnh, nấm mốc phát triển gây hại cho cây trồng, vật nuôi.