K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Từ Hải trong văn bản Trai anh hùng, gái thuyền quyên (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du). Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược...
Đọc tiếp

(2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Từ Hải trong văn bản Trai anh hùng, gái thuyền quyên (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du).

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(1.0 điểm) Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân đã miêu tả nhân vật Từ Hải trong lần đầu xuất hiện như sau: Lúc ấy, có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, vốn người đất Việt, có tính khoáng đạt, rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp oi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng (anh hùng trùm cả đời). Trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài nhân đã miêu tả nhân vật Từ Hải trong lần đầu xuất hiện như sau:

Lúc ấy, có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, vốn người đất Việt, có tính khoáng đạt, rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp oi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng (anh hùng trùm cả đời). Trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau mới xoay ra thương mại, tiền của có thừa, lại thích kết giao với những giang hồ hiệp khách. Nay nghe Thúy Kiều là hạng tài sắc, lại thêm khí khái hiệp hào, nhân tiện ghé thăm, mụ chủ biết Từ Minh Sơn là tay hảo hán, có lòng hạ cố, vội kêu Thúy Kiều ra tiếp. Thoạt mới nhìn nhau, đôi bên đã có phần thiện cảm…

(Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, NXB Hải Phòng, Hải Phòng, 1999, trang 349 – 350)

So sánh với bút pháp miêu tả Từ Hải của Nguyễn Du, hãy chỉ ra một sự sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân khi xây dựng nhân vật Từ Hải.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 ĐIỂM) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5: Đã có lần con khóc giữa chiêm bao Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó Đồng sau lụt, bờ đê sụt lở Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn.   Anh em con chịu đói suốt ngày tròn Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa Có gì nấu đâu mà nhóm lửa Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về…   Chiêm bao tan nước mắt dầm dề Con gọi mẹ...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5:

Đã có lần con khóc giữa chiêm bao

Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó

Đồng sau lụt, bờ đê sụt lở

Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn.

 

Anh em con chịu đói suốt ngày tròn

Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa

Có gì nấu đâu mà nhóm lửa

Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về…

 

Chiêm bao tan nước mắt dầm dề

Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng

Dù tiếng lòng con chẳng thể nào vang vọng

Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương.

    (Trích Khóc giữa chiêm bao, Vương Trọng)

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì?

Câu 2. Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện năm khốn khó trong đoạn trích?

Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ trong hai dòng thơ sau:

 Dù tiếng lòng con chẳng thể nào vang vọng

Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương.

Câu 4. Anh/Chị hiểu nội dung dòng thơ sau như thế nào?

Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn.

Câu 5. Thông điệp tâm đắc nhất mà anh/chị rút ra từ đoạn trích trên là gì? Nêu lí do anh/chị lựa chọn thông điệp đó.

0
(1.0 điểm) Theo em, nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp gì? Hãy phân tích tác dụng của bút pháp đó. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Theo em, nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp gì? Hãy phân tích tác dụng của bút pháp đó.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(1.0 điểm) Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh mà Nguyễn Du sử dụng để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh...
Đọc tiếp

(1.0 điểm)

Liệt kê những từ ngữ, hình ảnh mà Nguyễn Du sử dụng để chỉ và miêu tả nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(0.5 điểm) Liệt kê một số điển tích, điển cố trong văn bản. Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Liệt kê một số điển tích, điển cố trong văn bản.

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0
(0.5 điểm) Văn bản kể về sự việc gì? Bài đọc: Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1] Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi. Râu hùn, hàm én, mày ngài[3], Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào[4], Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7]. Giang hồ quen thú vẫy...
Đọc tiếp

(0.5 điểm)

Văn bản kể về sự việc gì?

Bài đọc:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[1]

Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình[2] sang chơi.

Râu hùn, hàm én, mày ngài[3],

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào[4],

Côn quyền[5] hơn sức, lược thao[6] gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông[7].

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[8].

Qua chơi nghe tiếng nàng kiều,

Tấm lòng nhi nữ[9] cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: “tâm phúc tương cờ[10],

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bây giờ nghe tiếng má đào,

Mắt xanh[11] chẳng để ai vào, có không?”

Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,

Tấn Dương[12] được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai[13] mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau!”

Hai bên ý hợp, tâm đầu[14],

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng nhân[15],

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn[16].

Buồng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên[17],

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[18].

(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, trang 158 – 162)

[1] Nhan đề do người biên soạn đặt.

[2] Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

[3] Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.

[4] Anh hào: anh hùng hào kiệt.

[5] Côn quyền: môn võ đánh bằng tay.

[6] Lược thao: mưu lược về tài dùng binh.

[7] Việt Đông: chỉ tỉnh Quảng Đông ở phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

[8] Gươm đàn … một chèo: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa tuy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông.

[9] Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.

[10] Tâm phúc tương cờ: tương cờ tức tương kì. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỉ chứ không phải là yêu đương trăng gió tạm bợ.

[11] Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều: Xưa nay, nàng chưa hề xem trọng ai có phải không.

[12] Tấn Dương: Tên đất nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thúy Kiều tin tưởng Từ Hải là Từ hải sẽ nên nghiệp đế vương. 

[13] Trần ai: bụi bặm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

[14] Ý hợp, tâm đầu: hợp ý nhau, có những tình cảm và các suy nghĩ như nhau.

[15] Băng nhân: người làm mối trong việc hôn nhân.

[16] Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước; phát hoàn: đưa trả lại.

[17] Thuyền quyên: người con gái đẹp.

[18] Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi…” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này ý nói Thúy Kiều và Từ Hải đẹp duyên với nhau.

0