K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 3 2019

Sân trường em có trồng rất nhiều cây bóng mát: cây phượng vĩ, cây xà cừ, cây bằng lăng,… Cây nào cũng đẹp, cũng xanh tốt. Nhưng em thích nhất là cây bàng được trồng ở trước cửa lớp 4C, trường Tiểu học Thị Trấn Vân Đình của em.

Em không biết cây được trồng tự bao giờ. Em chỉ biết, ngay từ ngày đầu tiên em cắp sách tới trường thì cây đã đứng ở đó rồi.

Từ xa nhìn lại, cây bàng như một chiếc ô xanh khổng lồ và mát rượi. Đến gần, cây sừng sững, tỏa bóng che mát cả một khoảng sân trường. Rễ cây to, dài, đâm sâu xuống đất. Có những rễ nổi lên mặt đất như những con rắn bò ngang dọc. Nhưng những con rắn này hiền lắm, chẳng cắn ai bao giờ đâu! Chúng chỉ ngày đêm âm thầm, hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Gốc cây được nằm trọn vẹn trong chiếc bồn xinh xắn hình vuông được bác thợ lề ốp gạch đỏ. Thân cây cao, to, đầy bướu và có nhiều sẹo. Xen giữa những vết sẹo là các đám mốc trắng giống như những bông hoa có nhiều hình thù, càng làm tôn lên vẻ đẹp cổ kính cho cây. Từ thân cây mọc ra rất nhiều cành. Các cành vươn dài, vươn rộng để đón ánh nắng mặt trời.Từ các cành, lá mọc ra rất nhiều. Lá bàng chuyển màu theo từng mùa. Mùa xuân, khi nhưng hạt mưa xuân bé nhỏ, mềm mại rơi xuống, đánh thức mầm non trên cây thức dậy, cây bàng như có hàng ngàn ngọn nến lung linh, kì ảo. Sang hè, lá chuyển sang màu xanh đậm, đan kín vào nhau, làm cho những tia nắng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích. Từ ngày vào lớp 4, thấm thoắt đã ba tháng trôi qua, chúng em lo học hành rồi lâu cũng quên mất màu lá bàng. Giờ đây, cây bàng đã rụng gần hết quả, chỉ còn mấy quả chín mọng còn sót lại trên cây. Là bàng không còn là màu xanh đẹp đẽ nữa mà là một màu úa vàng, rồi chuyển sang màu đỏ, từng chiếc từng chiếc rụng xuống đất. Cuối đông, những chiếc lá cuối cùng lìa cành, từ giã thân mẹ đơn sơ, nhường chỗ cho các em bé sắp chào đời.

Cây bàng đối với chúng em chẳng khác nào người bạn thân thiết. Cây không chỉ tô thêm vẻ đẹp cho ngôi trường thân yêu của em mà còn có rất nhiều ích lợi. Những buổi đi học sớm, em ngồi ôn bài dưới gốc cây. Vào giờ ra chơi, chúng em lại nô đùa ở đó. Chúng em không sợ nắng vì đã có cây che cho chúng em. Dưới bóng cây là nơi chứng kiến bao nhiêu trò chơi tinh nghịch của chúng em. Các bạn trai chơi đá bóng, chơi đuổi nhau,…Còn bọn con gái chúng em chơi nhảy dây, đá cầu, đọc truyện,…

Em yêu cây nên em không bao giờ bẻ cành hay vặt lá. Khi có người làm hại cây, em ra ngăn lại. Em sẽ bảo vệ cây để các bạn khác cũng có những kỉ niệm đẹp về cây như em.

24 tháng 3 2019

Ngay giữa sân trường tôi sừng sững một cây phượng. Tôi không biết "bác" được trồng từ lúc nào. Tôi chỉ biết rằng khi tôi cắp sách tới trưởng thì "bác" đã già, già lắm.

Nhìn từ xa, cây như một người khổng lồ, mái tóc màu xanh. Thân cây to, hai người ôm không xuể. vỏ cây xù xì nổi lên những u cục như người bị bướu. Nhưng ít ai biết rằng trong lớp vỏ xù xì đó dòng nhựa mát lành đang cuồn cuộn chảy để nuôi cây. Mùa xuân về, cây đâm chồi nảy lộc. Lá phượng giống lá me, mỏng, nhìn như những hạt cốm non. Những cành cây mập mạp như hàng trăm cánh tay đưa ra, đón ánh sáng mặt trời để sưởi ấm cho mình. Rồi những tiếng ve râm ran đầu tiên của mùa hạ cất lên, cây bắt đầu trổ hoa. Khi chưa muốn khoe vẻ đẹp của mình, hoa e lệ ẩn mình trong khi đài hoa xanh mỡ màng. Từng nụ, từng nụ uống sương đêm và tắm nắng mai rồi từ từ hé nở. Hoa phượng có năm cánh, mượt như nhung, toàn một màu đỏ thắm. Nhị hoa dài, xung quanh có một lớp phấn hung hung vàng. Hết mùa hoa, trên cây lấp ló những chùm quả phượng. Quả phượng giống quả bồ kết nhưng dài và to hơn.

Mỗi lần hoa phượng nở, lòng chúng tôi rộn lên bao cảm xúc, vừa vui lại vừa buồn, lại xen cả lo lắng. Tôi vui vì sắp dược nghỉ hè, buồn phải xa ngôi trường, còn lo lắng vì mùa thi đang đến. Các bạn ơi! Hôm nay bắt đầu ngày thi rồi đây. Buổi trưa, tôi vui vẻ đến khoe điểm mười đỏ chói với "bác" phượng già.

Hàng ngày, chúng tôi tưới nước cho cây. Đôi lúc lại có một số cậu học trò tinh nghịch trèo lên cây để hái quả. Làm sao quên được những kỉ niệm êm đẹp về người "bạn già" luôn chia sẻ niềm vui nỗi buồn với chúng tôi trong học tập. Thế rồi, chúng tôi phải nghỉ hè, xa bạn bè, xa cô giáo, xa "bác" phượng kính yêu.

Nghỉ tay một chút và tham gia trò chơi đố vui nào. Mỗi ngày sẽ ra 1 danh sách câu đố vào buổi tối tầm 7:00 và riêng chủ nhật thì sẽ có 2 danh sách câu đố được ra vào chiều 4:00 và tối 7:00Bạn nào trả lời đúng và nhanh nhất sẽ được tikBạn trả lời đầu tiên và chính xác nhất: 20 tik ( 1 bạn )Bạn trả lời thứ hai và cũng có câu trả lời chính xác: 10 tik ( 3 bạn )Bạn trả lời thứ ba và...
Đọc tiếp

Nghỉ tay một chút và tham gia trò chơi đố vui nào. Mỗi ngày sẽ ra 1 danh sách câu đố vào buổi tối tầm 7:00 và riêng chủ nhật thì sẽ có 2 danh sách câu đố được ra vào chiều 4:00 và tối 7:00

Bạn nào trả lời đúng và nhanh nhất sẽ được tik

Bạn trả lời đầu tiên và chính xác nhất: 20 tik ( 1 bạn )

Bạn trả lời thứ hai và cũng có câu trả lời chính xác: 10 tik ( 3 bạn )

Bạn trả lời thứ ba và cũng có câu trả lời chính xác: 5 tik ( 5 bạn )

Và những bạn khác nếu có câu trả lời đúng thì cũng sẽ được 1 tik

( Trong phần thi lưu ý không bạn nào được coppy trên mạng )

Do chỉ có mk nên phần tik hơi ít mong các bạn CTV và HIỆP SĨ và những bạn khác nữa có từ 20 tik trở lên sẽ tham gia giúp mk ai muốn tham gia thì nhắn tin và kết bạn với mình và lượng tik thưởng có thể sẽ tăng thêm

Chúc các bạn may mắn!

Câu đố vui hại não s 1: Quần rộng nhất là quần gì?

Câu đố vui hại não số 2: Có 1 con trâu. Đầu nó thì hướng về hướng mặt trời mọc, nó quay trái 2 vòng sau đó quay ngược lại sau đó lại quay phải hay vòng hỏi cái đuôi của nó chỉ hướng nào?

Câu đố vui hại não số 3: Con trai có gì quý nhất?

Câu đố vui hại não số 4: Nắng ba năm ta chưa hề bỏ bạn?

Câu đố vui hại não số 5: Con đường nào dài nhất?i

Câu đố vui hại não số 6: Một ly thuỷ tinh đựng đầy nước, làm thế nào để lấy nước dưới đáy ly mà không đổ nước ra ngoài?

Câu đố vui hại não số 7: Cái gì người mua biết, người bán biết, người xài không bao giờ biết?

Câu đố vui hại não số 8: Con chó đen người ta gọi là con chó mực. Con chó vàng, người ta gọi là con chó phèn. Con chó sanh người ta gọi là con chó đẻ. Vậy con chó đỏ, người ta gọi là con chó gì?

 

3
15 tháng 12 2020

cau1 : quần đảo

cau2: hướng xuống đất

cau3: ngọc trai

cau4: cái bóng

cau5: đường chan trời

cau678 mk ko bt

1 quần đảo

2 hướng xuống đất

3 ngọc trai

4 cái bóng

5 đường đời

6  ống hút

7 quan tài

8 tất nhiên là con chó đỏ rồi 

nhớ 20 k cho mình nha

24 tháng 3 2019

Hình như SP là điểm k đúng

Còn GP là điểm k sai

24 tháng 3 2019

mk cx không biết nx

Nhưng bạn ko nên đặt câu hỏi linh tinh như thế chứ! ❤️

Đấm bà hàng xóm =))

Bài làm

Mình sẽ bảo với mẹ là, mẹ ơi, mẹ đừng hiểu nhầm con, con không phảii chơi điện tử đâu, mà con đang học môn tin học đó mẹ ạ, tại đợt này con dốt môn tin học quá, mẹ cho con học thêm môn này nha. Thế là bác hàng xóm nghe được như thế, con của bác ý học cùng mik và bác ấy khi về nhà đã khuyên con mik đi học tin cùng.
# Chúc bạn học tốt #

Truyện 1  viết lại :) : Dạo này thấy nói về sán lợn nên Nam chuyển sang ăn thịt heo :)

23 tháng 3 2019

câu này mà câu đố vui

22 tháng 3 2019

Bằng 2 k mk nha

22 tháng 3 2019

1 + 1 = 2

Đọc xong đúng lak thấy ức chế con lp phó thật

tk nha

22 tháng 3 2019

that girl nhầm that ghost

22 tháng 3 2019

Cảm giác gần đất xa trời

.....Như sắp thăng thiên

.......tuyệt vời

22 tháng 3 2019

t đây não dừa

22 tháng 3 2019

1 + 1 = 2

đang lm BTVN

22 tháng 3 2019

Bài làm :

Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình,  xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.
            Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.


Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi.

“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”,  sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. Mười lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy?

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

            Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. “Aó chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4  như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”

Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những  kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc, và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.

“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với người dân Tây Bắc.

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

            Lối đối đắp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với môt không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”

            Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng những cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

            Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc. Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.
 

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)

     Trong đôi mắt thi nhân, đất nước là nguồn cảm hứng bất tận để họ thoả sức khám phá, sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà. Mộc mạc và đơn sơ nhưng đất nước đã khắc sâu dáng hình quê hương, con người Việt Nam trải qua từng giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Đất nước là lời ru, là câu chuyện cổ tích diệu kỳ, là dòng suối nguồn êm ái soi bóng nền văn minh dân tộc. Khác với hình ảnh đất nước hùng vĩ oai nghiêm, bao la và rộng lớn của Nguyễn Đình Thi hay thơ mộng trữ tình như Tố Hữu, bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm lại giản dị, chân thực biết bao. Chẳng cần những câu từ hoa mỹ bay bổng, xuyên suốt chiều dài tác phẩm hình ảnh đất nước đã hiện lên thật gần gũi, gắn bó sâu nặng với nhân dân, nhà thơ đã thể hiện một tư tưởng nhân văn chủ đạo “Đất nước của nhân dân”.
     Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại tỉnh Thừa Thiên – Huế trong một gia đình tri thức có truyền thống yêu nước và làm cách mạng. Học tập và trưởng thành tại miền Bắc nhưng cuộc đời kháng chiến và sáng tác nghệ thuật của ông lại gắn liền với chiến trường miền Nam. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn người đọc với lối suy tư sâu lắng và cảm xúc dạt dào của người tri thức trẻ khi viết về đất nước, con người thuở bấy giờ. Giọng thơ ông mang đậm màu sắc chính luận và chất trữ tình lãng mạn của nghệ sĩ chân chính đang băn khoăn, trăn trở trước những biến cố của đất nước, sứ mệnh lịch sử của tuổi trẻ trong thời chiến. Trường ca Mặt đường khát vọng được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên và được xuất bản lần đầu năm 1974. Đây là trường ca viết về thế hệ những thanh niên trẻ đô thị miền Nam, họ đã thức tỉnh và mang trong mình sứ mệnh đấu tranh đánh đuổi đế quốc bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của bản trường ca, đây là đoạn thơ đặc sắc có giá trị nội dung nghệ thuật vô cùng to lớn khi viết về đề tài đất nước ta thuở ấy.
      Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận hình ảnh đất nước dưới góc nhìn toàn diện, chẳng cần những định nghĩa xa vời trừu tượng ông đã trả lời cho câu hỏi “Đất nước có từ bao giờ?” bằng những hình ảnh dân gian gần gũi thân thuộc, từ nền văn hoá lâu đời của người Việt ta:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...”
mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”

    Đất nước được nhà thơ cảm nhận qua những gì thân thương nhất, gắn bó với mỗi con người trong cuộc đời thơ ấu. “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” tác giả không dùng mốc thời gian lịch sử cụ thể nào mà ông khẳng định khi con người sinh ra và lớn lên đã thấy dáng hình đất nước ở đó, chẳng phải biết từ bao giờ nhưng đất nước đã tồn tại qua bao nhiêu thăng trầm của thời gian. Đất nước hiện hữu trong những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ thường hay kể, “đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, đây đều là những nét văn hoá đặc sắc trong văn hoá dân tộc ta. Tuổi thơ ai chưa từng nghe những câu chuyện cổ tích diệu kỳ mẹ kể để rồi mơ về tương lai tươi đẹp, hạnh phúc. Ăn trầu là một phong tục có từ lâu đời của dân tộc ta, miếng trầu xuất hiện trong mọi hoạt động quan trọng: Cưới hỏi, ma chay,… đất nước “lớn lên” với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, nhưng bụi tre thô sơ ven đường cũng trở thành vũ khí đánh giặc, chỉ cần có ý chí kiên cường thì chẳng kẻ thù nào mà dân ta không đánh bại. Tác giả khắc hoạ hình ảnh đất nước thật chân thực mà đơn sơ, những hình ảnh quen thuộc cứ hiện diện trong từng câu thơ gợi cho người đọc những cảm xúc rung động dạt dào, đất nước chẳng phải cái gì đó kỳ vĩ lớn lao mà nó ở ngay gần ta “tóc mẹ thì bới sau đầu”,  “cái kèo, cái cột thành tên”. Đây là những lối sinh hoạt gần gũi, hình ảnh những người mẹ, người bà thường hay búi tóc thành từng cuộn sau gáy cũng tạo nên nét văn hóa vô cùng đặc sắc.
     Nước Việt ta từ khi hình thành và phát triển qua bao đời đều gắn với nền văn minh lúa nước. Để có được hạt gạo trắng trẻo, thơm lừng người nông dân phải đổ biết bao giọt mồ hôi trên cánh đồng lúa bát ngát, để rồi khi thu hoạch lại phải trải qua biết bao công đoạn “xay, giã, giần, sàng”. Bởi thế mà hạt gạo quý giá biết bao, nó là thành quả lao động của con người, là tinh hoa của trời đất. “Gừng cay muối mặn” thành ngữ dân gian chỉ tình cảm gắn bó, keo sơn mà ở đây tác giả muốn nói đến tình cảm vợ chồng chung thuỷ, sắc son, vợ chồng lấy nhau là bởi chữ tình, ở với nhau là cái nghĩa họ sẵn sàng hy sinh tất cả một lòng một dạ yêu thương, che chở cho nhau. Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn dạt dào cảm xúc mà Nguyễn Khoa Điềm đã giúp người đọc hình dung ra đất nước xinh đẹp không còn xa vời, nó ở xung quanh chúng ta “Đất nước có từ ngày đó...”, ông đã nhìn đất nước ngàn năm văn hiến theo bình diện văn hoá dân tộc.


     Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước theo phương diện chiều rộng không gian, với lối chiết tự chia tách đất nước thành hai chủ thể đầy sáng tạo, độc đáo nhà thơ đã định nghĩa đất nước đầy ý nhị và mang đậm màu sắc thơ mộng, trữ tình:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

    “Đất” và “Nước” được nhà thơ chia tách thành hai chủ thể để giải thích ý nghĩa. Trong con mắt của thi sĩ đất nước tồn tại trong nhân dân “là nơi anh đến trường”, “là nơi em tắm”, con đường mòn hằng ngày “anh” vẫn từng đi qua, dòng nước mát ngọt hiền hoà cho “em” tắm. Có lẽ đất nước chẳng hề xa lạ như ta vẫn thường nghĩ mà nó tồn tại trong cuộc sống đời thường, đất nước chắp cánh bao ước mơ hoài bão cho “anh” vào một tương lai tương sáng, vun đắp cho “em” những mơ mộng về hạnh phúc dịu dàng. Để rồi khi ta lớn lên vẫn có dáng hình đất nước cạnh bên soi bóng cho tình yêu lứa đôi nồng thắm “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, nỗi nhớ trong tình yêu dâng lên dạt dào đất nước đón nhận và tô thắm cho tình yêu thêm hương vị nhớ thương da diết, cháy bỏng. Những câu hò Bình Trị Thiên được Nguyễn Khoa Điềm mượn ý thơ để giải thích hình tượng đất nước thêm phần rộng lớn, bao la. Đất là nơi để “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, nước là nơi cho “con cá ngư ông móng nước biển khơi”, vẻ đẹp hùng vĩ của núi cao, tráng lệ của biển cả được tác giả miêu tả thật sống động, gợi bao nỗi niềm suy tư. Con chim phượng hoàng kia dù có bay đi muôn nơi đến những chân trời mới nhưng đến khi mỏi cánh, nó cũng trở về với “hòn núi bạc” thân thương, “Nước” biển khơi mênh mông, rộng lớn thoả sức cho “con cá ngư ông” vẫy vùng.
       Đất nước là những gì gần gũi thân thuộc, gắn bó với cuộc sống con người theo chiều dài thời gian lịch sử. Thời gian cứ “đằng đẵng” trôi qua “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”, cuộc sống ngoài kia biết bao bộn bề lo toan nhưng mỗi khi ta nghĩ về, quê hương đất nước lòng lại dâng trào niềm rung động da diết, tình thương giữa nhân dân cứ thế đong đầy để rồi đất nước là nơi chứng kiến biết bao cảnh đoàn tụ, sum vầy hạnh phúc. Đất nước theo định nghĩa của tác giả thật thiêng liêng “nơi Chim về”, “nơi Rồng ở” gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Tự hào biết bao! Người Việt Nam ta dòng máu Lạc Hồng, con cháu của Rồng tiên với tâm hồn thanh cao, ý chí anh dũng kiên cường. Từ thời gian huyền thoại xa xưa cho đến thực tại dân tộc ta vẫn giữ cho mình được tấm lòng ơn nghĩa biết nhớ về cội nguồn, quê hương. Con cháu sau này phải biết lấy tấm gương những người “đã khuất” để tiếp tục phát huy truyền thống quý báu của dân tộc , phải biết “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
      Nguyễn Khoa Điềm khắc hoạ tình yêu lứa đôi hài hoà với đất nước, đó không còn là tình yêu cá nhân của riêng “anh” và “em” mà có cả hình bóng đất nước dịu dàng. Không giống như tình yêu nồng nàn, cháy bỏng với cái tôi cá nhân mạnh mẽ của Xuân Quỳnh, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại cho người đọc thấy tình yêu dịu dàng vượt qua những biến cố cuộc đời, để hoà vào tình yêu quê hương đất nước. Có thể nói tình yêu chẳng còn phải là của riêng đôi lứa mà đã hoá thân thành tình yêu “vẹn tròn, to lớn” dành cho đất nước.
     Tác giả để lại những bài học nhân văn sâu sắc, nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết dấn thân vì đất nước, những câu thơ mộc mạc giản dị cũng như tiếng lòng đầy suy tư của Nguyễn Khoa Điềm:

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”

    Những câu thơ thủ thì tâm tình đầy chiêm nghiệm “Đất Nước là máu xương của mình”, che chở cho bao nhiêu lớp người sinh sống. “Các vua Hùng đã có công dựng nước” thì chúng ta mỗi người con đất Việt giữ lấy nước, biết “gắn bó và san sẻ”, biết “hoá thân cho dáng hình xứ sở” để làm nên một đất nước vững mạnh, to lớn.
    Đoạn trích Đất Nước vẫn được tác giả qua nhiều bình diện lịch sử, địa lý, văn hoá nhưng nổi bật lên là tư tưởng cốt lõi có sức ảnh hưởng to lớn, quyết định đến giá trị nhân văn sâu rộng của tác phẩm đó chính là tư tưởng: Đất Nước của nhân dân.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
                                                                 những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút,
                                                                              non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành
                                                                              thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang,
                                                                                      Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

     Việt Nam ta đất nước ngàn năm văn hiến gắn với những danh lam thắng cảnh vô cùng độc đáo. Có lẽ mẹ thiên nhiên đã ưu ái cho đất nước ta những kỳ quang  sao mà xinh đẹp thế, sẵn sàng làm say đắm biết bao trái tim con người. “Núi Vọng Phu”, “Hòn Trống mái”, “núi Bút, non Nghiên”,… đều là những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng với những tích truyện được lưu truyền rộng rãi. Những người vợ chờ chồng hoá đá, một lần nữa khắc sâu phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt: Chung thuỷ, sắc son, một lòng một dạ chờ chồng quay về. Hay hình ảnh “núi Bút, non Nghiên” biểu trưng cho truyền thống cần cù hiếu học, luôn phấn đấu nỗ lực hết mình trên con đường học vấn. Một đất nước hiện lên vừa gần gũi thiêng liêng lại giàu truyền thống anh hùng bất khuất trong chiến đấu bảo vệ quê hương. Có những người lính hy sinh trong thầm lặng “không ai nhớ mặt đặt tên”, họ sẵn sàng dấn thân khi tổ quốc lâm nguy, ra đi trong niềm tự hào khí thế ngút trời dù chẳng biết có ngày còn được trở về với gia đình, quê hương. Họ nằm xuống nơi miền đất lạ bỏ lại cả tuổi trẻ sau lưng nhưng chính sự hy sinh ấy đã “làm ra Đất Nước”.  Đất nước ta mang vẻ đẹp của những dáng hình chất phác, đôn hậu, đoàn kết trong đấu tranh và lao động đời thường.
     Ở những câu thơ cuối cùng Nguyễn Khoa Điềm đã phác hoạ hình ảnh đất nước không chỉ là của ca dao thần thoại mà chính là của truyền thống quý báu của con người Việt Nam. Trong tình yêu thì hồn nhiên, say đắm luôn lạc quan tin tưởng vào tình yêu sâu nặng “yêu em từ thuở trong nôi”, “biết quý công cầm vàng” thể hiện tấm lòng nhân nghĩa, biết quý trọng công sức những ngày gian khó vất vả. Ý chí kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu.
      Đất Nước là một tác phẩm rất thành công của Nguyễn Khoa Điềm viết về đề tài đất nước. Bằng ngòi bút tư duy sáng tạo, giàu chất suy tư triết lý tác giả đã làm sáng tỏ tư tưởng chủ đạo “Đất Nước của nhân dân”, qua đó cho người đọc khám phá được vẻ đẹp của đất nước qua nhiều bình diện. Sự tài hoa của người thi sĩ là biết chắt lọc, chọn lựa những ngữ liệu dân gian để đưa vào bài thơ tạo sự lôi cuốn cho người đọc, từ đó nâng cao giá trị của hình tượng Đất Nước trong bài thơ.

Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể bị hủy diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
            Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tư từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng. Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
 
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
            Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

22 tháng 3 2019

Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”


Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng.
Đại tư Mình và Ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa.
Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:


“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc lại hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”


Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:


“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”


Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.
Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:


“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”


Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dại với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:


“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”


Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.


“Mình đi, mình có nhớ mình”


Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu!
Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:


“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”


Hai đại từ Ta – Mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:


“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)


Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:


“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”


Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).


“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”


Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:


“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”


Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:


“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”


Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của Ta và Mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:


“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”


Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội. “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đòan xe vận tải tấp nập sôi động:


“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:


“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.


“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân(đặc biệt là hia đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng sưốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người