Nêu những thuận lợi, khó khăn của vị trí địa lí và hình dạng lãnh thổ đối với việc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Mình cần gấp ạ!!!!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Văn hóa:
Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta. Các nhà sử học thống nhất các ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá là rộng lớn và được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á.
Kinh tế:
Khí hậu nóng ẩm, hệ đất trồng phong phú, mạng lưới sông ngòi dày đặc, thuận lợi cho các việc phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới . Đông Nam Á cũng có lợi thế về biển. Các nước trong khu vực (ngoại trừ Lào)đều giáp biển, thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển cũng như thương mại, hàng hải. Nằm trong vành đai của sinh khoáng nên có nhiều loại khoáng sản; vùng thềm lục địa cũng giàu dầu khí, là nguồn nhiên liệu, nguyên liệu để phát triển kinh tế. Có rừng nhiệt đới ẩm lớn.
Khẳng định vai trò nòng cốt trong khu vực
Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nổi lên là một thành viên năng động và trách nhiệm, mang lại những ảnh hưởng tích cực cho cấu trúc của ASEAN, thúc đẩy hợp tác nội khối và tạo nhiều cơ hội cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế, đóng góp quan trọng vào việc duy trì sự thống nhất, hòa bình và ổn định khu vực.
Cụ thể, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy kết nạp các nước Campuchia, Lào và Myanmar vào ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một “mái nhà chung” ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á. Điều này đã góp phần đưa ASEAN trở thành tổ chức đại diện cho toàn khu vực, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á -Thái Bình Dương.
Năm 1998, chỉ 3 năm sau khi Việt Nam trở thành thành viên của khối, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Kế hoạch hành động Hà Nội được đưa ra tại Hội nghị đã giúp duy trì sự hợp tác và tăng cường vị thế của hiệp hội trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN 2001 và nước Chủ tịch ASEAN 2010. Ở hai cương vị này, Việt Nam đã giúp thúc đẩy một bước tiến lớn hướng tới thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, qua đó tăng cường vai trò và vị thế quốc tế của khối.
Trong suốt 25 năm qua, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến và đã được hiện thực hóa, trong đó phải kể đến Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng mở rộng (ADMM+) hay thành lập Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN. Năm 2010, nước Chủ tịch Việt Nam tạo được đồng thuận về quyết định mở rộng Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) cho Nga và Mỹ tham gia...
Trong vai trò điều phối, Việt Nam đã làm tốt việc kết nối, mở rộng và làm sâu sắc quan hệ giữa ASEAN với các đối tác chiến lược, như: Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Australia và Ấn Độ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực triển khai lộ trình tổng thể xây dựng cộng đồng ASEAN, tham gia soạn thảo sáng kiến liên kết ASEAN, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và hỗ trợ các thành viên mới hội nhập khu vực.
Đặc biệt, trong năm 2019 Việt Nam đã cùng các nước thành viên xây dựng và thông qua quan điểm về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, giúp hình thành lập trường chung của ASEAN về vấn đề này. Cũng trong năm 2019, Việt Nam tham gia thúc đẩy thông qua, hoàn tất đàm phán Hiệp định Thương mại Dịch vụ, xây dựng lộ trình cắt giảm hàng rào phi thuế quan và kết thúc đàm phám Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), dự kiến sẽ được ký trong năm 2020 tại Việt Nam.
Đánh giá về vai trò và những đóng góp của Việt Nam trong suốt 25 năm qua, Đại sứ Trần Đức Bình, Trưởng phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại ASEAN cho biết: Việt Nam là một quốc gia thành viên có trách nhiệm, chủ động, tích cực trong tất cả các hoạt động của ASEAN và luôn nằm trong nhóm nước có tỷ lệ cao nhất trong việc thực hiện kế hoạch tổng thể về xây dựng cộng đồng ASEAN.
Năm 2020, việc Việt Nam đang tích cực phát huy vai trò dẫn dắt của Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đã một lần nữa ghi thêm vào danh mục những đóng góp của Việt Nam cho ASEAN trong suốt 25 năm qua, cũng như khẳng định vị thế và vai trò lãnh đạo của quốc gia trong khu vực. Cộng đồng ASEAN kịp thời hành động, chủ động thích ứng, gắn kết các quốc gia đối phó với đại dịch COVID-19 đang hoành hành trên toàn cầu. Sau sự thành công của Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN và ASEAN+3 về ứng phó với COVID-19, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 lần đầu tiên được tổ chức trực tuyến cũng đã thành công tốt đẹp... Các quốc gia thành viên đã đưa ra Tuyên bố Tầm nhìn của các nhà lãnh đạo ASEAN về gắn kết và chủ động thích ứng: Vượt lên thách thức và hướng tới phát triển bền vững, trở thành kim chỉ nam cho ASEAN trên con đường phát triển và hội nhập. Dưới sự dẫn dắt của Việt Nam, các quốc gia trong khu vực đã cùng chia sẻ những kết quả ban đầu đáng khích lệ trong cuộc chiến chống Covid-19 và các sáng kiến như lập Quỹ ứng phó dịch Covid-19 của ASEAN, Kho dự trữ vật tư y tế của khu vực, Bộ quy trình vận hành tiêu chuẩn của ASEAN cho các tình huống y tế công cộng khẩn cấp, xây dựng Kế hoạch phục hồi toàn diện sau dịch bệnh.
Tổng thư ký ASEAN, ông Dato Lim Jock Hoi đánh giá: Việt Nam đã thể hiện “tầm lãnh đạo mạnh mẽ” trong việc dẫn dắt một phản ứng tập thể của khu vực trước đại dịch COVID-19. ASEAN đã đoàn kết và nhanh chóng ứng phó với đại dịch kể từ tháng 2/2020. Điều này một lần nữa khẳng định “tầm lãnh đạo của Việt Nam” đặc biệt trong việc thúc đẩy các quốc gia thành viên đối thoại và hợp tác thông qua một loạt các hội nghị trực tuyến. ASEAN hoàn toàn có thể vượt qua thử thách của dịch COVID-19 với sự đồng thuận, kiên cường và nỗ lực.
Tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, và những hậu quả sau đây có thể phát sinh từ việc tiêu thụ bất cẩn và quá mức các tài nguyên này:
Ví dụ : Khi một công ty khai thác mỏ vào một quốc gia đang phát triển ở phía nam toàn cầu để khai thác nguyên liệu thô, việc ủng hộ những lợi thế về sự hiện diện của ngành và giảm thiểu những tác động tiêu cực tiềm ẩn sẽ thu được sự hợp tác của người dân địa phương. Các yếu tố thuận lợi chủ yếu nằm ở sự phát triển kinh tế để có thể thành lập các dịch vụ mà chính phủ không thể cung cấp như trung tâm y tế, sở cảnh sát và trường học. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế, tiền tệ trở thành đối tượng được quan tâm chi phối. Điều này có thể dẫn đến những xung đột lớn mà cộng đồng địa phương ở một nước đang phát triển chưa từng giải quyết trước đây. Những xung đột này nổi lên do sự thay đổi quan điểm vị kỷ hơn giữa những người dân địa phương bị ảnh hưởng bởi các giá trị của chủ nghĩa tiêu dùng.
Việc khai thác đòi hỏi diện tích rừng lớn phải được giải tỏa để đất có thể được đào bởi các thợ mỏ. Vì lý do này nên việc phá rừng quy mô lớn được yêu cầu phải được thực hiện tại các khu vực khai thác mỏ phải được thực hiện.
Bên cạnh việc làm sạch khu vực khai thác, thảm thực vật ở các khu vực lân cận cũng cần phải được cắt để xây dựng đường xá và các công trình dân cư cho công nhân mỏ. Dân số con người mang theo cùng với các hoạt động khác gây hại cho môi trường. Ví dụ, các hoạt động khác nhau tại các mỏ than phát tán bụi và khí vào không khí. Vì vậy, khai thác mỏ là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm.
Ô nhiễm nguồn nước
Trước đây, các sunphua kim loại bị chôn vùi được phơi nhiễm trong các hoạt động khai thác mỏ. Khi chúng tiếp xúc với oxy trong khí quyển, chúng được chuyển thành axit sulfuric mạnh và các oxit kim loại. Các hợp chất này bị lẫn lộn trong các tuyến đường thủy địa phương và gây ô nhiễm các con sông địa phương với các kim loại nặng. Các hóa chất như thủy ngân, xianua, axit sulfuric, asen và metyl thủy ngân được sử dụng trong các giai đoạn khai thác khác nhau.
Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Hầu hết các hóa chất được thải vào các vùng nước gần đó và gây ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù các chất thải (đường ống) được sử dụng để xử lý các hóa chất này vào trong các nguồn nước, luôn có khả năng rò rỉ. Khi các hóa chất từ từ thấm qua các lớp đất, chúng tiếp cận với nước ngầm và gây ô nhiễm nó.
Việc giải phóng các hóa chất độc hại vào trong nước rõ ràng là có hại cho hệ thực vật và động vật của các vùng nước. Bên cạnh ô nhiễm, quá trình khai thác cần nước từ các nguồn nước lân cận. Ví dụ, nước được sử dụng để rửa tạp chất từ than đá. Kết quả là hàm lượng nước của sông hoặc hồ mà từ đó nước đang được sử dụng sẽ giảm đi. Các sinh vật trong các khu vực nước này không có đủ nước để sinh tồn.
> > Xem thêm: Những phương pháp bảo vệ môi trường cực đơn giản
Nạo vét sông là một phương pháp được áp dụng trong trường hợp khai thác vàng. Trong phương pháp này, sỏi và bùn được hút từ một khu vực cụ thể của dòng sông. Sau khi các mảnh vàng được lọc ra, bùn và sỏi còn lại được thả trở lại sông, mặc dù, tại một địa điểm khác với nơi chúng đã được lấy đi. Điều này làm gián đoạn dòng chảy tự nhiên của dòng sông có thể làm cho cá và các sinh vật khác chết.
Ô nhiễm nguồn nước
Mặc dù các biện pháp được đưa ra để giải phóng chất thải hóa học trong các con sông gần đó thông qua đường ống, một lượng lớn hóa chất vẫn rò rỉ ra ngoài đất. Điều này làm thay đổi thành phần hóa học của đất. Bên cạnh đó, vì các hóa chất độc hại, chúng làm cho đất không phù hợp với cây trồng. Ngoài ra, các sinh vật sống trong đất nhận thấy môi trường ô nhiễm là kẻ thù cho sự sống còn của chúng.
Lây lan bệnh
Đôi khi chất thải lỏng được tạo ra sau khi các kim loại hoặc khoáng chất đã được chiết xuất và được xử lý trong một hố khai thác. Khi hố được lấp đầy bởi các chất thải, chúng trở thành một hồ nước đọng lại. Điều này trở thành nơi sinh sản của các bệnh do nước gây ra, gây ra côn trùng và sinh vật như muỗi phát triển mạnh.
Mất đa dạng sinh học
Các khu rừng được khai thác cho mục đích khai thác là nhà của một số lượng lớn các sinh vật. Việc khai hoang bừa bãi của rừng dẫn đến mất môi trường sống của một số lượng lớn động vật. Điều này đặt sự tồn tại của một số lượng lớn các loài động vật bị đe dọa. Việc cắt giảm các cây là một mối đe dọa lớn đối với một số loài thực vật, cây cối, chim và động vật sống trong rừng.
Ví dụ về tác động môi trường của khai thác mỏ
Môi trường đất cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
Rừng nhiệt đới là nguồn cung cấp oxy, gỗ và thuốc lớn nhất trên Trái Đất này. Rừng mưa Amazon được biết đến với các mỏ vàng phù sa. Vàng được tìm thấy cả trong các kênh sông và ở bờ sông sau lũ lụt. Kỹ thuật khai thác thủy lực được sử dụng để khai thác vàng.
Phương pháp này liên quan đến nổ mìn ở bờ sông. Điều này đã gây ra thiệt hại cho cây cối, chim và động vật. Trong khi tách trầm tích và thủy ngân khỏi các mỏ trầm tích có năng suất vàng, các thợ mỏ quy mô nhỏ, những người ít trang bị hơn các thợ mỏ công nghiệp, có thể sẽ phóng thích một số thủy ngân xuống sông. Thủy ngân này đi vào chuỗi thức ăn thông qua động vật thủy sinh và động vật ăn thịt của chúng.
Hợp chất có độc tính cao 'xianua' cũng được sử dụng để tách vàng khỏi trầm tích và đá. Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, đôi khi vẫn không thể tránh khỏi bởi môi trường xung quanh chúng cũng bị ô nhiễm. Những người ăn cá có nhiều nguy cơ bị nhiễm chất độc như vậy.
Năm 1995, ở Guyana, hơn bốn tỷ lít nước thải chứa xianua, được chuyển vào một nhánh của Essequibo; khi các đập thải được đổ đầy chất thải xianua, bị sập. Tất cả những con cá trên sông chết, thực vật và động vật đã bị phá hủy hoàn toàn và đất ngập nước bị nhiễm độc nặng, khiến đất đai trở nên vô dụng đối với nông nghiệp.
Tác động môi trường của khai thác mỏ
Nguồn nước uống chính cho người dân địa phương cũng bị ô nhiễm. Đây là một trở ngại lớn cho ngành du lịch sinh thái trên sông. Khi cây bị chặt (làm sạch rừng để xây dựng đường, gỗ cho người di cư, công nhân,...) và nguồn nước bị ô nhiễm, quần thể động vật di cư hoặc chết. Hơn nữa, thợ săn được thuê để nuôi những người làm việc tại các địa điểm khai thác mỏ.
>> Xem thêm: Bao nhiêu lâu nên thông cống nghẹt định kỳ?
Công viên quốc gia Kahuzi-Biega, Congo, được tuyên bố là 'Di sản thế giới' vào năm 1980 vì sự đa dạng sinh học phong phú của nó. Bảo tồn một số loại động vật và thực vật là mục tiêu đằng sau điều này. Khi hàng ngàn người bắt đầu chiết xuất tantali và cassiterite tại hàng trăm địa điểm trên khắp công viên, hầu hết các loài động vật lớn đã bị giết trong vòng 15-20 năm.
Số lượng khỉ đột của Grauer, loài chỉ được tìm thấy trong khu vực này, giảm đáng kể. Thống kê cho thấy bây giờ, chỉ còn 2-3 nghìn gorilla Grauer còn lại.
Chính phủ Indonesia đã kiện một công ty khai thác vàng đã vứt bỏ chất thải độc hại, chẳng hạn như asen và thủy ngân vào vịnh Buyat. Cá trong vịnh đã bị chết. Người dân ở khu vực xung quanh không còn có thể ăn cá nữa. Họ đã bị các bệnh khác nhau như nhức đầu liên tục, phát ban da, khối u và khó thở.
Nước ta giàu tài nguyên khoáng sản là do: - Lãnh thổ VN nằm trên chỗ giao nhau giữa 2 vành đai kiến tạo và sinh khoáng lớn nhất là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, đồng thời nằm trên địa điểm tiếp giáp của đại lục Gorwana và Lauraxia và trên bản lề của mảng đại dương Paxtie với mảng lục địa Âu-Á nên có mặt hầu hết các khoáng sản quan trọng trên Trái Đất. - Việt Nam là nước giàu khoáng sản đứng thứ 7 trên thế giới. -VN nằm trên ranh giới của nhiều mảng kiến tạo, những chỗ ép, nén thường tạo ra mỏ than(Quảng Ninh), còn những chỗ tách dãn tạo ra các mỏ dầu( vùng biển phía nam). - Dầu khí , sắt, boxit, photphat đều có trữ lượng rất lớn, trữ lượng quặng nhôm chỉ đứng sau Oxtraylia và Chi Lê, đất hiếm chỉ đứng sau TQ và Mĩ, mỏ sắt Thạch Khê là mỏ sắt lớn nhất ở Đông Nam Á. - Điều đặc biệt là thế giới có 5 khoáng sản được gọi là vàng mà VN đều có. Việt Nam có lẽ là nước duy nhất có cả 5 loại vàng nói trên và đều thuộc loại tuyệt hảo.
Việt Nam là nước giàu khoáng sản đứng thứ 7 trên thế giới. -VN nằm trên ranh giới của nhiều mảng kiến tạo, những chỗ ép, nén thường tạo ra mỏ than(Quảng Ninh), còn những chỗ tách dãn tạo ra các mỏ dầu( vùng biển phía nam).