Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Bài giảng SVIP
I. Tiểu dẫn
1. Tác giả và dịch giả
a. Tác giả Đặng Trần Côn
- Không rõ năm sinh, năm mất, sống khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII.
- Quê quán: làng Nhân Mục (Mọc), huyện Thanh Trì, nay là quận Thanh Xuân, Hà Nội.
- Tương truyền, ông là người thông minh, hiếu học, đã đỗ Hương cống.
- Sự nghiệp sáng tác: Tiêu tương bát cảnh, Tùng bách thuyết thoại, Bích câu kì ngộ.
b. Dịch giả
- Vấn đề dịch giả có nhiều tranh cãi giữa Phan Huy Ích và Đoàn Thị Điểm.
- Cho đến nay tìm thấy 4 bản dịch, trong đó có bản dịch được khắc in và lưu truyền rộng rãi nhất là bản dịch hiện hành.
- Đoàn Thị Điểm: được đánh giá là người có sắc đẹp, tài văn ưu tú nhất trong số những nữ sĩ thời trung đại.
+ 1705 – 1748.
+ Hiệu: Hồng Hà nữ sĩ.
+ Quê quán: Văn Giang, Hưng Yên.
+ Nổi tiếng thông minh, xinh đẹp.
+ Chồng là Tiến sĩ Nguyễn Kiều, ngay sau khi kết hôn đã phải đi sứ. Có thể trong khoảng thời gian cô đơn, chờ chồng, bà đã có sự đồng cảm với người chinh phụ trong tác phẩm của Đặng Trần Côn nên bà đã dịch tác phẩm ra chữ Nôm.
- Phan Huy Ích:
+ 1750 – 1822
+ Tên tự là Dụ An
+ Quê quán: Hà Tĩnh, sau chuyển ra Quốc Oai, Hà Nội.
+ Đỗ Tiến sĩ năm 26 tuổi.
=> Cả tác giả và dịch giả đều là những người tài giỏi, có trình độ học vấn cao. Vì vậy mà cả tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm đều là những tác phẩm có giá trị.
2. Tác phẩm
- Thể loại:
+ Nguyên tác: trường đoản cú: 476 câu
+ Dịch – thể ngâm khúc, phù hợp để diễn tả tâm trạng buồn đau, ai oán, than vãn, mà nói như nhà phê bình Đặng Thai Mai thì tâm trạng của nvtt như “ngưng đọng trên một khối sầu”.
- Thể song thất lục bát.
- Hoàn cảnh sáng tác: Theo các tài liệu lịch sử, vào đầu đời vua Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình phải cất quân đánh dẹp. Nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. Có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà chờ chồng trong nhớ thương, buồn tủi. Tác giả Đặng Trần Côn đã đồng cảm với đau thương mất mát của con người trong chiến tranh nói chung, đồng cảm với những nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ.
- Giá trị nội dung:
+ Thể hiện sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
+ Diễn tả tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
3. Đoạn trích
* Vị trí: từ câu 193 – 216
* Bố cục:
- Đoạn 1: Nỗi bồn chồn, ngóng trông, nhớ thương của chinh phụ. (Từ đầu…khá thương)
- Đoạn 2: Cảm giác về thời gian chờ đợi mòn mỏi. (Gà eo óc… miền biển xa)
- Đoạn 3: Gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn của chinh phụ. (Hương… ngại chùng)
- Đoạn 4: Niềm mong ước được gửi nỗi niềm thương nhớ đến chồng. (Còn lại)
II. Tìm hiểu đoạn trích
1. Thể hiện trong các hành động lặp đi lặp lại (4 câu đầu)
- Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước: hành động đi đi lại lại -> Bước chân chậm chạp, trĩu nặng nỗi niềm chán ngán, chán trường của chinh phụ.
- “Ngồi rèm thưa””: Hết đứng lên lại ngồi xuống. -> Sự thấp thỏm và bất an, bồn chồn.
- “Rủ thác đòi phen”: hết buông ràm xuống lại cuốn rèm lên -> Bồn chồn, hành động lặp đi lặp lại trong vô thức.
- “Ngoài rèm thước chẳng mách tin”: Hết ngóng ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành rồi lại: “Trong đèn dường đã có đèn biết chăng” thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc. Chỉ có ngọn đèn là người bạn đồng hành duy nhất với người chinh phụ.
-> Những hành động này lặp đi lặp lại trong vô thức buồn chán, tẻ nhạt.
-> Lo lắng, bất an, bồn chồn, mỏi mệt.
2. Thể hiện qua cách cảm nhận ngoại cảnh (8 câu tiếp theo)
* Ngọn đèn:
- Ngọn đèn vô tri vô giác nhưng là người bạn duy nhất để người chinh phụ chia sẻ nỗi lòng “bi thiết” và “buồn rầu” của mình.
- Vì vô tri vô giác nên chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Vô tri vô giác nên không thể nào vỗ về, an ủi => Câu thơ khiến ta càng thấm thía nỗi cô đơn cùng cực của chinh phụ.
=> Ngọn đèn song hành, đồng hành nhưng không thể chia sẻ được nên vẫn là hai thực thể tách rời. Không thể nào đồng cảm và sẻ chia tâm tư tình cảm với chinh phụ được.
- Nhắc đến hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”: hoa đèn soi bóng người cô đơn, tội nghiệp -> chinh phụ đã thao thức rất lâu, từ đêm này sang đêm khác, triền miên và khắc khoải.
* Tiếng gà: “Gà eo óc gáy sương năm trống”
- Tiếng gà gáy báo hiệu trời sáng.
- “eo óc” từ láy tượng thanh, diễn tả âm thanh nhức nhối, thê lương, vang lên, vọng từ xa đến cho thấy không gian tịnh mịch, vắng vẻ -> Chinh phụ đã thao thức qua cả một đêm dài
* Bóng hoa hòe: “Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
- Bóng hòe báo hiệu đã hết một ngày dài
- “phất phơ” là từ láy tượng hình, diễn tả nhịp điệu chậm rãi, tẻ nhạt -> từ láy vừa tả cảnh vừa diễn tả tâm trạng con người buồn chán, ngao ngán.
=> Hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lẻ loi. -> đau khổ trong vô vọng
* Từ nỗi cô đơn bủa vây, chinh phụ cảm nhận thấm thía tình cảnh, nỗi cô đơn hơn bao giờ hết:
- “Khắc giờ đằng đẵng như niên”: thời gian trôi qua rất nặng nề, vô vị. Một khắc một giờ thôi mà kéo dài lê thê như hàng năm trời vậy.
- “Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”: nỗi buồn trải dài mênh mông đến không cùng -> Dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông.
=> Tâm tư của người chinh phụ: nàng thấy thời gian sao mà lê thê đến thế, tẻ nhạt vô vị đến thế, nỗi buồn của mình sao mà rộng lớn đến thế, nỗi buồn ấy đang ở giới hạn không cùng, như biển cả vậy.
3. Thể hiện qua sự gắng gượng chạy trốn nỗi cô đơn (câu 13- câu 16)
Người chinh phụ đã tìm quên bằng một loạt những hành động cụ thể:
* Gượng đốt hương:
- Để tìm sự thanh thản trong mùi trầm thoang thoảng
- tìm sự che chở ở thế giới siêu nhiên, thần bí.
-> Trái với mục đích hướng đến của chinh phụ, thực tế lại “hồn đà mê mải”, chinh phụ càng chìm đắm sâu hơn trong nỗi sầu muộn của riêng mình.
* Gượng soi gương:
- Để tìm thú vui trong việc trang điểm, chỉnh trang nhan sắc.
- Nhưng khi soi gương lại phải đối diện với hai điều:
+ Đối mặt với sự cô đơn, thấm thía tình cảnh bi đát của mình: chỉ một mình mình một bóng
+ Nhận thấy tuổi xuân đang dần tàn phai.
-> Nước mắt càng thêm chan chứa “lệ lại châu chan”, càng thấy buồn khổ hơn bao giờ hết.
=> người chinh phụ thấm thía hơn tình cảnh của mình và tuổi xuân của mình tàn phai trong cô đơn, lẻ loi, sầu muộn. => càng thêm buồn khổ.
* Gượng đánh đàn:
- Nhưng khi chạm đến đàn, người chinh phụ phải đối mặt với thực tại, lại tự ý thức về tình cảnh của mình:
+ Thấy tủi thân trước những biểu tượng của đôi lứa ẩn chứa trong các nhạc cụ:
Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận.
Dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp.
Phím loan: phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đôi gắn bó.
=> Tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình là cô đơn, lẻ bóng.
=> Càng cô đơn, tủi thân, thương thân.
- Thậm chí người chinh phụ còn thấy lo lắng. Khi chơi đàn, nàng rất sợ:
+ “Dây uyên kinh đứt”: Dây đàn bị đứt.
+ “Phím loan ngại chùng”: Phím đàn bị chùng.
-> Biểu hiện cho sự không may mắn của lứa đôi, là điềm gở. ->Tìm đến những nhạc cụ nhưng cũng không chạy trốn được nỗi cô đơn, vẫn lo lắng, bất an.
=> Chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến những thú vui của phụ nữ quý tộc xưa. Càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng thấm thía bi kịch của mình và càng sầu muộn, đau khổ hơn bao giờ hết. => Đồng cảm với nỗi đau xót của những người vợ lính.
4. Thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên
- Các hình ảnh thiên nhiên cho thấy khoảng cách giữa chinh phu và chinh phụ là khoảng cách không cùng.
+ Non Yên: núi Yên Nhiên, nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi.
+ Đường lên bằng trời – trời thăm thẳm xa vời khôn thấu: Không gian chia cách là không cùng, xa xôi, cách trở. -> Không thể vượt qua.
+ Chinh phụ đi tìm giải pháp để vượt qua khoảng cách: gửi tất cả những nhớ nhung đến cho chồng qua ngọn gió đông (ngọn gió mùa xuân): “nghìn vàng”.
+ Thăm thẳm, đau đáu: nỗi nhớ khôn nguôi, triền miên khắc khoải.
-> Nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể thực hiện được.
- Chinh phụ lại phải đối mặt với thực tại sầu muộn và thấm thía bi kịch của mình:
+ “sương đượm”: sương buốt, rét mướt.
+ “tiếng trùng”: tiếng côn trùng rêu rả rích buồn thê lương
+ “mưa phun”: màn mưa ảm đạm giăng mắc không dứt.
-> Cảnh buồn, ảm đạm, thê lương. -> Cảnh đang bủa vây xung quanh chinh phụ.
-> Tác động đến tâm trạng chinh phụ “thiết tha” (cắt, mài) -> đau đớn.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Diễn tả những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ: nỗi cô đơn, buồn khổ.
- Diễn tả khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
- Tố cáo tội ác của chiến tranh phi nghĩa.
2. Nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật, tác giả rất thành công khi biến thế giới vô hình trở nên hữu hình.
- Thể thơ song thất lục bát giàu tính nhạc + hệ thống từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm góp phần quan trọng trong diễn tả thế giới nội tâm nhân vật.
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây