Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Hải khẩu linh từ được sáng tác bởi tác giả
Về tác giả Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả và Hải khẩu linh từ
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha và anh đều đỗ dạt và làm nghề dạy học; bản thân bà cũng từng mở trường và có công dạy học cho cung nữ trong phủ chúa Trịnh. Đoàn Thị Điểm là người tài sắc, biết nghề làm thuốc, văn chương nổi tiếng đương thời. Tác phẩm còn lại của bà gồm có Truyền kì tân phả và bản dịch (diễn âm) Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn).
Truyền kì tân phả (Cuốn phả mới về truyện “Truyền kì”) còn có tên khác là Tục Truyền kì lục (Ghi chép nối tiếp sách “Truyền kì”). Tên truyện cho thấy rõ ý của tác giả là muốn tiếp nối Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bản gốc Truyền kì tân phả đã thất lạc, hiện còn biết được một số dị bản. Bản lưu truyền hiện nay do nhà sách Lạc Thiện xuất bản (đầu thế kỉ XIX).
Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa bể) là một truyện trong Truyền kì tân phả, kể về nhân vật chính là nàng Bích Châu, một cung phi đời Trần, là người tài sắc đức độ, luôn quan tâm chính sự. Truyện được viết dựa trên một số sự kiện lịch sử có thật với những tên người, tên đất xác thực nhưng phần hư cấu nghệ thuật vẫn hết sức đậm nét. Ở đây, tác giả đã đưa vào nhiều yếu tố kì ảo để chuyển đổi hình thức các sự kiện nhằm thể hiện tư tưởng và quan niệm thẩm mĩ riêng của mình.
Riêng về nhân vật lịch sử Bích Châu, do các tài liệu ghi chép quá ít nên còn có những nghi vấn nhất định. Các thông tin về bà chủ yếu dưới dạng truyền tụng. Theo đó, bà sống trong khoảng đời vua Trần Duệ Tông, quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; là con gái của một vị tướng họ Nguyễn. Bích Châu còn có tên tự là Bích Lưu (theo chữ Hán, bích - châu - lưu đều có nghĩa là các loại ngọc quý), dung mạo xinh đẹp, giỏi văn chương. Sau khi được tuyển vào cung, Bích Châu thường được vua gọi là Nguyễn Cơ (cơ có nghĩa là người con gái quý phái). Đời Lê, vua Lê Thánh Tông có làm thơ viếng cảnh ngôi đền thờ bà. Việc bà được các triều đại phong kiến cấp sắc phong và cho thờ phụng ở vị trí thượng đẳng thần là một trong những cơ sở cho phép đoán định chuyện về Bích Châu là câu chuyện người thật, việc thật. Đền Hải Khẩu (nhân dân thường gọi là đền Bà Hải) thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu nay ở thôn Hải Khẩu, thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền có từ trước đời Lê (có tài liệu cho rằng đền do Lê Thánh Tông cho lập), được trùng tu nhiều lần, đến nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng với lòng thành kính. Hiện chưa xác định rõ tên thôn “Hải Khẩu” có từ bao giờ nên các bản dịch tác phẩm đều dịch nhan đề theo nghĩa chữ Hán là "cửa bể”.
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có biệt hiệu là Hồng Hà nữ sĩ. |
|
b) Xuất thân từ một gia đình bán tơ tằm có tiếng. |
|
c) Được mệnh danh là "Bà Chúa thơ Nôm". |
|
d) Từng dạy học cho cung nữ trong phủ chúa Trịnh. |
|
Về tác giả Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả và Hải khẩu linh từ
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha và anh đều đỗ dạt và làm nghề dạy học; bản thân bà cũng từng mở trường và có công dạy học cho cung nữ trong phủ chúa Trịnh. Đoàn Thị Điểm là người tài sắc, biết nghề làm thuốc, văn chương nổi tiếng đương thời. Tác phẩm còn lại của bà gồm có Truyền kì tân phả và bản dịch (diễn âm) Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn).
Truyền kì tân phả (Cuốn phả mới về truyện “Truyền kì”) còn có tên khác là Tục Truyền kì lục (Ghi chép nối tiếp sách “Truyền kì”). Tên truyện cho thấy rõ ý của tác giả là muốn tiếp nối Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bản gốc Truyền kì tân phả đã thất lạc, hiện còn biết được một số dị bản. Bản lưu truyền hiện nay do nhà sách Lạc Thiện xuất bản (đầu thế kỉ XIX).
Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa bể) là một truyện trong Truyền kì tân phả, kể về nhân vật chính là nàng Bích Châu, một cung phi đời Trần, là người tài sắc đức độ, luôn quan tâm chính sự. Truyện được viết dựa trên một số sự kiện lịch sử có thật với những tên người, tên đất xác thực nhưng phần hư cấu nghệ thuật vẫn hết sức đậm nét. Ở đây, tác giả đã đưa vào nhiều yếu tố kì ảo để chuyển đổi hình thức các sự kiện nhằm thể hiện tư tưởng và quan niệm thẩm mĩ riêng của mình.
Riêng về nhân vật lịch sử Bích Châu, do các tài liệu ghi chép quá ít nên còn có những nghi vấn nhất định. Các thông tin về bà chủ yếu dưới dạng truyền tụng. Theo đó, bà sống trong khoảng đời vua Trần Duệ Tông, quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; là con gái của một vị tướng họ Nguyễn. Bích Châu còn có tên tự là Bích Lưu (theo chữ Hán, bích - châu - lưu đều có nghĩa là các loại ngọc quý), dung mạo xinh đẹp, giỏi văn chương. Sau khi được tuyển vào cung, Bích Châu thường được vua gọi là Nguyễn Cơ (cơ có nghĩa là người con gái quý phái). Đời Lê, vua Lê Thánh Tông có làm thơ viếng cảnh ngôi đền thờ bà. Việc bà được các triều đại phong kiến cấp sắc phong và cho thờ phụng ở vị trí thượng đẳng thần là một trong những cơ sở cho phép đoán định chuyện về Bích Châu là câu chuyện người thật, việc thật. Đền Hải Khẩu (nhân dân thường gọi là đền Bà Hải) thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu nay ở thôn Hải Khẩu, thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền có từ trước đời Lê (có tài liệu cho rằng đền do Lê Thánh Tông cho lập), được trùng tu nhiều lần, đến nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng với lòng thành kính. Hiện chưa xác định rõ tên thôn “Hải Khẩu” có từ bao giờ nên các bản dịch tác phẩm đều dịch nhan đề theo nghĩa chữ Hán là "cửa bể”.
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Đoàn Thị Điểm là người , biết nghề , văn chương nổi tiếng đương thời. Các tác phẩm còn lại của bà gồm có và bản diễn âm từ nguyên tác chữ Hán cùng tên của Đặng Trần Côn.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Về tác giả Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả và Hải khẩu linh từ
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha và anh đều đỗ dạt và làm nghề dạy học; bản thân bà cũng từng mở trường và có công dạy học cho cung nữ trong phủ chúa Trịnh. Đoàn Thị Điểm là người tài sắc, biết nghề làm thuốc, văn chương nổi tiếng đương thời. Tác phẩm còn lại của bà gồm có Truyền kì tân phả và bản dịch (diễn âm) Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn).
Truyền kì tân phả (Cuốn phả mới về truyện “Truyền kì”) còn có tên khác là Tục Truyền kì lục (Ghi chép nối tiếp sách “Truyền kì”). Tên truyện cho thấy rõ ý của tác giả là muốn tiếp nối Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bản gốc Truyền kì tân phả đã thất lạc, hiện còn biết được một số dị bản. Bản lưu truyền hiện nay do nhà sách Lạc Thiện xuất bản (đầu thế kỉ XIX).
Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa bể) là một truyện trong Truyền kì tân phả, kể về nhân vật chính là nàng Bích Châu, một cung phi đời Trần, là người tài sắc đức độ, luôn quan tâm chính sự. Truyện được viết dựa trên một số sự kiện lịch sử có thật với những tên người, tên đất xác thực nhưng phần hư cấu nghệ thuật vẫn hết sức đậm nét. Ở đây, tác giả đã đưa vào nhiều yếu tố kì ảo để chuyển đổi hình thức các sự kiện nhằm thể hiện tư tưởng và quan niệm thẩm mĩ riêng của mình.
Riêng về nhân vật lịch sử Bích Châu, do các tài liệu ghi chép quá ít nên còn có những nghi vấn nhất định. Các thông tin về bà chủ yếu dưới dạng truyền tụng. Theo đó, bà sống trong khoảng đời vua Trần Duệ Tông, quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; là con gái của một vị tướng họ Nguyễn. Bích Châu còn có tên tự là Bích Lưu (theo chữ Hán, bích - châu - lưu đều có nghĩa là các loại ngọc quý), dung mạo xinh đẹp, giỏi văn chương. Sau khi được tuyển vào cung, Bích Châu thường được vua gọi là Nguyễn Cơ (cơ có nghĩa là người con gái quý phái). Đời Lê, vua Lê Thánh Tông có làm thơ viếng cảnh ngôi đền thờ bà. Việc bà được các triều đại phong kiến cấp sắc phong và cho thờ phụng ở vị trí thượng đẳng thần là một trong những cơ sở cho phép đoán định chuyện về Bích Châu là câu chuyện người thật, việc thật. Đền Hải Khẩu (nhân dân thường gọi là đền Bà Hải) thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu nay ở thôn Hải Khẩu, thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền có từ trước đời Lê (có tài liệu cho rằng đền do Lê Thánh Tông cho lập), được trùng tu nhiều lần, đến nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng với lòng thành kính. Hiện chưa xác định rõ tên thôn “Hải Khẩu” có từ bao giờ nên các bản dịch tác phẩm đều dịch nhan đề theo nghĩa chữ Hán là "cửa bể”.
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác phẩm Truyền kì tân phả?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có tên khác là Tục Truyền kì lục. |
|
b) Được mệnh danh là "áng thiên cổ kỳ bút". |
|
c) Cho thấy sự kế thừa thể loại truyện thơ Nôm của tác giả. |
|
d) Thể hiện mong muốn được tiếp nối Nguyễn Dữ của tác giả. |
|
Về tác giả Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả và Hải khẩu linh từ
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha và anh đều đỗ dạt và làm nghề dạy học; bản thân bà cũng từng mở trường và có công dạy học cho cung nữ trong phủ chúa Trịnh. Đoàn Thị Điểm là người tài sắc, biết nghề làm thuốc, văn chương nổi tiếng đương thời. Tác phẩm còn lại của bà gồm có Truyền kì tân phả và bản dịch (diễn âm) Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn).
Truyền kì tân phả (Cuốn phả mới về truyện “Truyền kì”) còn có tên khác là Tục Truyền kì lục (Ghi chép nối tiếp sách “Truyền kì”). Tên truyện cho thấy rõ ý của tác giả là muốn tiếp nối Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bản gốc Truyền kì tân phả đã thất lạc, hiện còn biết được một số dị bản. Bản lưu truyền hiện nay do nhà sách Lạc Thiện xuất bản (đầu thế kỉ XIX).
Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa bể) là một truyện trong Truyền kì tân phả, kể về nhân vật chính là nàng Bích Châu, một cung phi đời Trần, là người tài sắc đức độ, luôn quan tâm chính sự. Truyện được viết dựa trên một số sự kiện lịch sử có thật với những tên người, tên đất xác thực nhưng phần hư cấu nghệ thuật vẫn hết sức đậm nét. Ở đây, tác giả đã đưa vào nhiều yếu tố kì ảo để chuyển đổi hình thức các sự kiện nhằm thể hiện tư tưởng và quan niệm thẩm mĩ riêng của mình.
Riêng về nhân vật lịch sử Bích Châu, do các tài liệu ghi chép quá ít nên còn có những nghi vấn nhất định. Các thông tin về bà chủ yếu dưới dạng truyền tụng. Theo đó, bà sống trong khoảng đời vua Trần Duệ Tông, quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; là con gái của một vị tướng họ Nguyễn. Bích Châu còn có tên tự là Bích Lưu (theo chữ Hán, bích - châu - lưu đều có nghĩa là các loại ngọc quý), dung mạo xinh đẹp, giỏi văn chương. Sau khi được tuyển vào cung, Bích Châu thường được vua gọi là Nguyễn Cơ (cơ có nghĩa là người con gái quý phái). Đời Lê, vua Lê Thánh Tông có làm thơ viếng cảnh ngôi đền thờ bà. Việc bà được các triều đại phong kiến cấp sắc phong và cho thờ phụng ở vị trí thượng đẳng thần là một trong những cơ sở cho phép đoán định chuyện về Bích Châu là câu chuyện người thật, việc thật. Đền Hải Khẩu (nhân dân thường gọi là đền Bà Hải) thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu nay ở thôn Hải Khẩu, thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền có từ trước đời Lê (có tài liệu cho rằng đền do Lê Thánh Tông cho lập), được trùng tu nhiều lần, đến nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng với lòng thành kính. Hiện chưa xác định rõ tên thôn “Hải Khẩu” có từ bao giờ nên các bản dịch tác phẩm đều dịch nhan đề theo nghĩa chữ Hán là "cửa bể”.
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Hải khẩu linh từ là một truyện trong , kể về nhân vật chính là nàng - một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, trung trinh, nhân từ và nặng lòng với .
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Sắp xếp các sự kiện chính dưới đây theo trình tự cốt truyện của văn bản.
- Vua Duệ Tông cho kén Bích Châu vào cung làm phi tần; Bích Châu dâng sớ Kê minh thập sách.
- Giao thần tới gặp buộc vua phải giao nộp mỹ nhân; Bích Châu chủ động nộp mình cho Giao thần.
- Vua Trần Duệ Tông dẫn quân đánh quân Chiêm Thành.
- Bích Châu kể rõ nỗi oan khuất cho vua Lê; vua Lê gửi thư cho Quảng Lợi vương.
- Giao thần bị trừng trị, Bích Châu được dân chúng lập đền thờ, ca tụng đời đời.
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về Bích Châu?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Có nhan sắc xinh đẹp, tình tình đứng đắn. |
|
b) Có tính tình giảo hoạt, xảo trá, lắm mưu nhiều kế. |
|
c) Thông hiểu âm luật, giỏi văn chương nên được vua yêu mến. |
|
d) Xuất thân bần hàn, có quá khứ đáng thương. |
|
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Khi thấy chính sự quốc gia suy kém, Bích Châu đã
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Nội dung nào dưới đây không xuất hiện trong Kê minh thập sách của Bích Châu?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Qua Kê minh thập sách, Bích Châu hiện lên là một người phụ nữ như thế nào?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Khi nhận được Kê minh thập sách của Bích Châu, nhà vua đã có thái độ như thế nào?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Khi nhà vua muốn dấy binh Chiêm Thành, Bích Châu cũng lẽ thiệt hơn cho đất nước và dân chúng mà vua. Điều này cho thấy nàng là người có tính cách và tấm lòng , thương yêu dân chúng, ghét cảnh chiến tranh; đồng thời nàng cũng là người cẩn trọng, biết suy tính trước sau, hơn thiệt, biết nghĩ về những điều gốc rễ của chính sự quốc gia, lo lắng cho của đất nước,...
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về hành động của Bích Châu khi Giao thần bắt vua Trần phải cống nạp mỹ nhân?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Quyết gieo mình xuống biển để giúp vua giải mối nguy trước mắt. |
|
b) Hết lòng khuyên nhà vua rút quân về kinh đô trước khi gieo mình. |
|
c) Chủ động giao nộp mình cho Giao thần dù vua không chuẩn thuận. |
|
d) Suy tính thiệt hơn kĩ càng trước khi tự nộp mình cho Giao thần dưới biển. |
|
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Chọn chi tiết kì ảo trong những chi tiết dưới đây.
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Chi tiết Bích Châu bày tỏ chỗ "không được yên lòng" về ý kết của bài thơ mà vua Lê ngự đề trên miếu thờ của nàng cho thấy Bích Châu là người phụ nữ như thế nào?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về việc kết hợp giữa yếu tố lịch sử và yếu tố huyền thoại trong tác phẩm?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Được tổ chức ở nhiều tầng bậc và khía cạnh. |
|
b) Xuất hiện dày đặc ở các chi tiết mở đầu tác phẩm. |
|
c) Giúp cho câu chuyện trở nên gần gũi, quen thuộc hơn. |
|
d) Góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. |
|
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Trong văn bản, vua Trần hiện lên là một vị vua như thế nào?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Trong văn bản, vua Lê hiện lên với những phẩm chất nào dưới đây?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Tư tưởng nào dưới đây không được thể hiện trong tác phẩm Hải khẩu linh từ?
HẢI KHẨU LINH TỪ
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
1. Nguyễn Cơ - cung phi triều Trần là con gái nhà quan. Nàng có tiểu tự là Bích Châu, tính tình đứng đắn, dung nhan tươi tắn, lại thông hiểu âm luật [...]. Vua Duệ Tông biết tiếng, cho kén vào cung.
Một hôm, đúng tiết Trung thu trời đẹp, vua mở yến hội các phi tần. Đứng tựa hiên ngọc, nhà vua đưa mắt ngóng nhìn bốn hướng, thấy cảnh lâu đài tấp nập, mọi nơi ca múa, ánh đèn chói lọi cùng ánh trăng lồng bóng vào nhau. Rồi nhân lúc rượu nồng, nhà vua nảy ra thi hứng, ngẫu nhiên thành một vế đối:
- Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế.
Nhà vua ngâm nga một lát, rồi ngoảnh nhìn Nguyễn Cơ mà bảo:
- Nàng có thể đối lại câu ấy chăng?
Nguyễn Cơ liền dời gót sen, hé môi đào chúm chím chậm rãi ứng khẩu:
- Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thuỷ để phù dung.
Nghe nàng ứng đối, nhà vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban cho đôi ngọc long kim nhĩ và nhân câu đối của nàng có hai chữ “phù dung” liền lấy hai chữ đó đặt tên cho nàng. Từ đó Phù Dung Nguyễn Cơ được vua yêu quý hơn tất cả các cung phi.
Bấy giờ Nguyễn Cơ thấy chính sự quốc gia tiếp theo thói tệ thời Hôn Đức nên ngày càng suy kém, bèn viết bài biểu Kê minh thập sách dâng lên. Đại khái, nội dung của bài đó như sau:
“Trộm nghĩ dời củi khỏi bếp tranh, để phòng cháy trước khi chưa cháy, dùng dâu ràng cửa tổ để ngừa mưa trước lúc chưa mưa. Dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, còn thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị [...]. Thần là kẻ thiếp hèn mọn, tên tự Bích Châu, lúc nhỏ sinh ở bồng môn, khi lớn được hầu nơi tiêu thất [...]. Xin bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.
Hai là, giữ phép xưa bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối.
Ba là, nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát.
Bốn là, thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động Nho phong, khiến cho đuốc lửa cùng ánh mặt trời soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cánh cửa của lòng thành cùng với đường can gián đều mở toang.
Bảy là, cách kén quân, nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quý ở bền sắc, không chuộng văn hoa.
Mười là, trận pháp cốt cho tề chỉnh, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng! Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Tờ sớ dâng lên, vua vui thích quá, vỗ vào cây đàn mà reo lên:
- Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ dường này! Thật là một Từ phi ở trong cung của trẫm vậy.
Tuy nhiên nhà vua vẫn còn do dự, chưa đem thi hành [...].
(Lược một đoạn: Năm Long Khánh thứ tư - 1376, có bề tôi tâu trình việc quân Chiêm Thành quấy phá bờ cõi, vua muốn đem quân trừ diệt. Quan Ngự sử Lê Tích can gián “vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh”. Bích Châu biết vua không nghe lời nói thẳng và tỏ rõ ý khinh địch, bèn làm biểu dâng lên, nói rõ lẽ thiệt hơn, trong đó nhấn mạnh: bậc thánh nhân nên rộng lượng, đạo trị nước nên chú ý cái gốc, nên nghỉ việc binh để dân chúng yên vui).
2. Tờ biểu dâng lên, vua không trả lời, lại hạ lệnh duyệt binh, định đến tháng Chạp kéo quân đi đánh. Nàng thấy lời can không được vua nghe theo, so sức mình, lượng sức giặc, tấm lòng lo nước nhớ vua đăm chiêu ra sắc mặt. Nàng than:
- Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không khéo lấy lời ngay để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi đất trời vậy.
Từ đó, nàng không để lòng đến sự trang điểm, ăn ngủ không yên, cố ý nài xin được đi hộ giá. Vua chuẩn y lời tâu ấy. Đúng ngày, nhà vua đem hai mươi vạn quân lên đường. Bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, ba quân thuận dòng mà tiến, thẳng tới địa giới Kỳ Hoa. Các phụ lão nghe tin quân nhà vua đến, tranh nhau dâng lụa cùng thức ăn, đứng xếp hàng ở bờ sông chào đón và tâu:
- Thần miếu ở phía trước rất hiển linh, các tàu thuyền qua lại nếu đến đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, không thì một mái chèo, một mảnh buồm đều bị đắm xuống đáy biển hết!
Vua uý lạo các phụ lão, cho lui về, rồi hạ lệnh tạm đóng quân ở bên bãi vắng. Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ thụ. Nàng Bích Châu cuốn rèm gấm lên, ngồi tựa mạn thuyền một mình, nàng rót rượu ngon, đốt hương thơm, bao nhiêu cảnh trời biển thiên nhiên đều thu vào trong tầm mắt. Lúc gần nửa đêm, Bích Châu ngửa mặt lên xem tượng trời, thấy một đám mây đen từ phương đông lại, lấn vào ngôi sao thứ tư bắc cực rất gấp. Nàng sợ hãi chỉ vào sao ấy mà nói:
- Ngôi sao kia ứng vào phận phi tần, chả biết yêu khí nơi nào dám đến xâm phạm? Có lẽ sao kia khinh ta không có thanh gươm Bao Công hay sao?
Nói xong, nàng liền đóng cửa sổ đi nằm, trằn trọc không yên giấc. Chợt nghe tứ bề đã điểm trống canh tư. Nàng ngồi dậy bói một quẻ Kinh dịch, trúng vào quẻ “Phục” biến sang quẻ “Di” [...].
Khi mặt trời chiếu vào cửa sổ trong thuyền, thì thuyền quân tiến đến cửa biển. Bỗng một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lớp lớp cờ đào bị gió cuốn sang phía tây nam. Nàng nói:
- Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc ảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà!
Vua hỏi:
- Là nghĩa thế nào?
Nàng tâu:
- [...] Xin nhà vua cấp tốc chỉnh bị sáu quân để đối phó.
Nàng nói chưa dứt lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biển gào thét. Nhà vua hạ lệnh thả neo để lánh trận gió mạnh. Cuối canh ba bỗng có một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước dài, cúi đầu, nghiêng mình, lắc lư đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
- Ngươi là ai? Đêm khuya tới đây chắc có điều gì muốn nói?
Người ấy thưa:
- Tôi là đô đốc vùng biển nam, làm quan nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ. Nghe nói, bệ hạ cung tần rất nhiều, nay ngẫu nhiên gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ Hoa đường. Vậy xin nhà vua ban cho một mĩ nữ, tôi sẽ kết cỏ để báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm của riêng thì tôi không thể nào bỏ qua được.
Vua gật đầu, sực tỉnh giấc. Vua liền cho vời phi tần đến, kể lại giấc mộng. Các cung phi đều tái mặt, nhìn nhau im lặng, không ai nói gì cả. Trong lúc đó, nàng Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, quỳ trước mặt vua, tâu:
Ngôi đền thiêng kia, các phụ lão đã trình tâu; cái nguy sóng gió đó, chứng nghiệm đã báo. Nếu không phải là oan khiên ngày trước, cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mắt kia.
Vua buồn rầu nói:
- Lành dữ có mệnh, phúc hoạ do trời. Thiêng như Kiềm Doanh cũng không tự chủ trương được. Này xem, Diệt Minh là một tráng sĩ đã chém được con thuồng luồng cướp ngọc bích, Kính Chi là một văn nhân còn giết được loài trai bể quen thói hiếp đáp, huống chi trẫm là một ông vua vạn thặng lẽ nào không tự chủ được, lại tin lời mê hoặc để nàng mắc lụy oan?
Nàng khẩn khoản:
- Thiếp tuy là phận gái, vả cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu! Nhưng khốn, việc đã đến nơi, thế không thể đừng được. Ví bằng nấn ná e lại xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền bị tan vỡ hết. Vả lại, khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ; đời xưa có người giết vợ, vứt con, cũng là do sự vạn bất đắc dĩ.
Vua nghe nàng nói, lòng thêm buồn bã, không nỡ rời bỏ nàng. Chính lúc ấy gió gào cuộn đất, sóng vỗ ngút trời, đã mấy phen thuyền rồng chực lật úp. Nàng khóc, tâu:
- Có duyên may được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận, chỉ hiềm:
Ra quân chưa thắng thân xuôi trước,
Luống để anh hùng nước mắt tuôn!
Đó là điều di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối!
Nói xong, nàng nhảy xuống biển. Trong gió gào sóng cuộn, còn nghe văng vẳng tiếng nàng:
- Đa tạ quân vương, từ nay xin vĩnh biệt...
Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc, gió tan mưa tạnh, biển hết sóng cồn. Vua sai thuỷ quân mò tìm không thấy tung tích nàng đâu cả.
Nhà vua liền đặt lễ tế, đọc bài văn chiêu hồn [...]
Nhà vua tế xong, ba quân văn võ đều khóc sướt mướt. Vua lập tức hạ lệnh lên đường, tiến sâu vào cửa động Ý Mang, trúng phải quỷ kế của Bà Ma, toàn quân và nhà vua bị hãm ở trong động ấy, khiến bụi trần dậy đất, cáo hổ đầy đường.
*
3. Nhưng rồi vận suy đã hết. Bĩ cực thái lai. Lòng trời quyến cố nhà Lê mở ra vận hội lớn. Đến triều Thánh Tông trị vì, khoảng niên hiệu Hồng Đức, ngoài biên thuỳ lại có giặc ngoại xâm. Vua nghe tin, bảo tả hữu:
- [...] Ngày nay, hôn chúa Chiêm Thành kiêu căng khinh mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem quân đi trị tội, thì làm sao cứu được dân lành?
Rồi hạ chiếu xuất quân, vua thân hành thống suất thuỷ binh tiến phát. Khi ấy gặp mùa xuân khí trời ấm áp, buồm gấm gió đưa, thuyền rồng êm sóng. Hai bên bờ sông chim oanh học nói, ngang mặt nước có diệc lặn bơi [...].
Chưa đầy một tháng, thuỷ quân đã kéo đến cửa bể Kỳ Hoa. Bỗng nhiên mưa gió mịt mù, sóng biển dâng trào. Vua hạ lệnh cho các chiến thuyền theo thứ tự đóng lại. Trông sang bên kia bờ, cây to rợp đất, khí uất ngang trời, vua bèn cho dời thuyền đến gần xem. Thì ra đó là một toà miếu cổ, hương khói nghi ngút, hoa thơm ngào ngạt, cáo chuột ra vào trong bụi rậm, chim sẻ ríu rít nơi lau lách, hành khách treo tiền giấy trên cành cây, người làng gác thuyền bên cạnh đền. Vua hỏi dân sở tại, biết rõ đầu đuôi chuyện trước, liền chỉ vào miếu truyền rằng:
- Đã lâu nay nghe tiếng nhà ngươi thường làm nhiều điều ngang ngược. Nay quân của trẫm đi qua đây, còn dám làm điên cuồng như thế, dẫu âm dương cách biệt nhưng phép nước trong tay ta. Nhà ngươi há lại không biết việc mộc yêu, cổ quái chăng? Nay phải hối lại lỗi xưa, nếu không thì một phiến gạch vụn, một nắm tro tàn cũng bị phá tan thành đất phẳng.
Nói xong, tiếng sóng càng mạnh, khi ấy mặt trời đã lặn, bóng trắng lên cao, đêm khuya thỉnh thoảng nghe tiếng người thuyền chài hát văng vẳng ở trong cảng nhỏ. Vua băn khoăn không ngủ, ngồi xem sách. Gần lúc gà gáy, vua tựa án rồng chợp mắt thiu thiu, bỗng thấy một người con gái, nhan sắc rất đẹp, từ dưới nước hiện lên, lạy khóc mà nói:
- Thiếp là cung nhân đời Trần Duệ Tông, không bị chìm đắm ở bến Đỗ Phụ và cũng không bị nước cuốn ở Tiêm Đài, chỉ là hồng nhan bạc mệnh, chiếc bóng một mình, phiêu lưu vào trong tay yêu quái. Từ khi về nơi thuỷ quốc, ở lẫn với loài hôi tanh, xấu hổ làm vợ họ Trương, bi luỵ làm tù nước Sở, ngậm sầu như biển, coi ngày bằng năm, giận thân không thể hoá ra hồn tinh vệ..., chỉ đau lòng mà thốt ra phú Li tao. May sao ngày nay gặp đức Thánh hoàng, dám xin cả gan tâu bày, mong được ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân, để cho tiện thiếp lại được trông thấy ánh sáng mặt trời. Đó là ân lớn của bệ hạ tái tạo vậy.
Vua nghe nói xót thương mà bảo:
- Nỗi oan của phu nhân cũng như Liễu Thị, có nghĩa hơn Tào Nga, ngàn đời về sau cũng lấy làm đau lòng cắn răng! Chỉ hiềm, âm dương cách biệt, thuỷ bộ đôi đường, dẫu có rừng gươm núi giáo cũng chưa rõ làm cách gì để cứu vớt?
Nàng thưa:
- Việc này rất dễ. Bệ hạ nhân từ tín nghĩa khắp cả đến mọi loài vật. Tên đô đốc kia, tội ác đầy rẫy, sóng biển không rửa hết. Ngoài biển có Quảng Lợi vương là vị thống trị nó, xin bệ hạ gửi cho Quảng Lợi vương một lá thư trách rằng, thiếu sự ngăn phòng kẻ dưới, tự khắc Quảng Lợi vương phải trị tội tên hung thần kia.
Rồi nàng liền dâng ngọc minh châu mà bảo:
- Ngọc châu này gọi tên là triệt hải, soi thấy cả nơi âm u, kính dâng lên để thay thông thiên tê ở Ngưu Chử.
Nói xong nàng biến mất. Vua duỗi tay ra nhặt lấy ngọc châu, chợt tỉnh giấc thì tiếng chuông đã báo sáng. Nhà vua sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một phong thư, bắn ra ngoài biển, treo ngọc minh châu nhìn ra, quả nhiên thấy lầu son gác tía, thành đồng ao nóng, con cháu ngư long cưỡi ngựa đi kiệu, qua lại dưới thành, không lúc nào ngớt bóng. Khi ấy có Kình hiệu uý đi tuần tiễu về, nhặt được bức thư mà nhà vua đã niêm phong cẩn thận, vội vàng đem vào tâu.
4. Chính lúc ấy Quảng Lợi vương ngồi ở điện Linh Đức, sai Long thượng thư mở ra đọc. Thư rằng:
“Thường nghe: ban phúc người thiện, ra tai kẻ dâm, đạo trời nhanh như tiếng dùi với trống; ban thưởng người tốt, phạt tội kẻ xấu, vương chính vững như chất đá cùng vàng, trên dưới như nhau, xưa nay một lẽ. Nay trẫm nối ngôi chính truyền của tổ tiên, đem quân đánh Chiêm Thành là do tội ác của chúng, trời đất thần người đều không tha thứ. Quân thuyền trăm vạn tiến phát, ba nghìn thuỷ lộ mở đường. Hoàng việt vẫy thì cá tôm chìm lặn, loài vật cũng biết sợ hãi; bạch mao trỏ thì gió mây biến sắc, ai là không sợ giản thư? Ấy thế mà bầy tôi diều hâu độc dữ của ông còn dám chống lại đội quân chim cắt tung cánh của trẫm, y làm yêu làm quái, hiếp oan cung nữ vua Trần, tham sắc tham tài, lại nhiễu hại tính mệnh dân lành. Kẻ kia tất hung hăng quá lắm, sao ngài cứ lặng ngắt ngồi yên? Phải sáng suốt soi gian, đừng để kẻ tiểu nhân lẫn với người quân tử; nên quyết đoán việc làm, nghiêm dùng quốc pháp, giết bọn gian tà. Xin gửi phong thư, chờ mong phục bút!”.
Quảng Lợi vương nghe đọc xong, mặt rồng nổi giận, nói:
- Người nào cai quản địa phương ấy?
Ngao ngự sử ở trong triều ban nhảy ra tâu:
- Đó là hải khẩu Giao đô đốc vậy. Y là cành vàng lá ngọc, chịu trách nhiệm trông coi một phương trời, chuyên quyền phóng túng, tham sắc đẹp, ăn hối lộ.
Quảng Lợi vương đập gươm xuống bàn nói:
- Quả nhân ít đức, dùng người không xứng đáng; lũ các ngươi a dua để cho y làm rối loạn kỉ cương, mang tiếng với trần gian; tội ác của y không khác gì tứ hung và ngũ cẩu..., thực đáng sợ vậy! Nay phải phanh thây để làm răn cho hạng người tham bạo.
Khi ấy Côn thừa tướng đứng lên tâu:
- Đức xấu của Giao đô đốc tung khắp cả trên trần gian và dưới âm ti, nếu chỉ dùng hình pháp trị y, chưa đủ làm cho mọi người hả dạ. Nay không gì hơn là, viết thư trả lời, rồi sai tướng đi bắt để làm tội một cách công khai, cho tỏ rõ hiến chương của chúng ta rất nghiêm ngặt.
Quảng Lợi vương cho là phải, liền hạ lệnh cho Ngạc tổng binh, Miết tòng sự đem vài nghìn lính mặc áo giáp, đội mũ trụ đi tróc nã Giao đô đốc. Lại sai Lí hàn lâm thảo thư, Long các thần sửa lại, Quy đốc bưu sung chức giang sứ mang thư ra đầu bãi biển. Vua sai học sĩ Lương Thế Vinh nhặt lấy xem. Đó là một lá thư viết vào lụa, mở ra đọc, thấy thư viết:
“Thường nghe: khí mùa xuân ấm áp, hang tối chưa kịp thấm nhuần; ánh mặt trời soi chung, chậu úp không thể thấu đến. Vì trời đất còn có chỗ thiếu sót mà tạo hoá cũng phần nhiều không đều. Tôi đây thẹn rằng, tài hèn lạm giữ chức cao, hết lòng cầu tìm người hiền tài, mong có sự phò giúp của lương tá. Vốn đã biết, vương đạo phải công bằng rất mực, nhưng khốn nỗi gian tà còn che lấp thông minh. Cho nên phiên trấn xa xôi, còn có cường thần làm bậy... Dẫu là hai nơi âm dương cách biệt, nhưng ba thước gươm sáng chẳng dung gian tà.
Kính cẩn trả lời, dám mong xét đến”.
Đọc xong thư ấy, vua trao lại cho quần thần cùng xem. Khi mọi người để mắt trông ra ngoài biển đều thấy: đi trước là Ngạc tổng binh, theo sau có các loại cá lớn, các loài rùa, ba ba,... như sấm như sét tiến thẳng vào hải phận của Giao thần. Miết tòng sự dõng dạc tuyên chỉ:
- Tên Giao thần kia, nhỏ mọn tài hèn, hùng phiên trọng nhậm; không giữ lòng chính trực, lại quen thói tà dâm, dấn thân nơi nguồn lợi tham ô, chìm đắm vào ba đào sắc dục. Thật là đáng đem ra chém giết, dùng chính trăm hình; nhưng nghĩ đến đánh dẹp có công hãy khoan bát nghị đày lên lục địa, cho được toàn sinh. Khâm thử!
[...] Giao thần cụp đuôi biến mất.
5. Bỗng chốc, sóng biếc lặng im, non xanh phơi bóng, “hòn ngọc Minh Châu” lúc trước không biết hiện thân vào nơi nào, chỉ thấy pha lê nhấp nhánh, hương hài nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, nhan sắc bình sinh không thay đổi. Vua cho lấy lễ hoàng hậu mai táng, làm văn tế, dâng lên lễ điện rồi đề lên tường bên trái miếu ấy bài thơ:
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.
Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương quân.
Than ôi! Trăm vạn quân hùng mạnh,
Lại kém thư sinh một hịch văn!
Đề thơ xong, nhà vua chỉnh đốn quân lữ lên đường. Quân đi đến đâu như gió mùa thu bẻ cành khô, núi Thái Sơn đè quả trứng, bắt sống tù trưởng, hát khúc khải hoàn. Khi vua kéo quân về, gặp lúc mặt trời xế chiều, thuyền quân lại đi qua nơi cũ, nhân tiện đóng quân ở dưới đền.
Đêm ấy trăng sáng sao thưa, nước trời hoà sắc, vua hồi tưởng lại việc thần thuồng luồng nổi sóng, bà Duệ phi quyên sinh, ngậm ngùi than thở:
Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi tất có điềm dữ, điềm lành hay điềm dữ thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu.
Nói xong, trong lòng nhà vua bồi hồi không ngớt. Ngọn đèn lờ mờ, đồng hồ nhỏ giọt, chợt nhà vua thấy một mĩ nhân vẻ mặt đoan trang, mặc áo trắng, đến trước vái chào mà thưa:
- Nhờ ơn Thánh hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã lên tiên, tiêu diêu nơi mây trắng. Thượng đế thương lòng trung thành của thiếp, sai giáng linh xuống trần, được trông coi hoạ phúc một phương. Thiếp đã mở xem tiên tích, biết bệ hạ là Tiêu Điện tiên đồng, ngày sau được gặp, sẽ ngậm vành đáp tạ để trả ơn to như núi cao biển rộng của người. Duy có một điều thắc mắc về câu kết bài thơ ngụ đề vàng ngọc ở trên tường, làm cho thiếp không được yên lòng về chỗ vua tôi, chồng vợ.
Vua gật đầu nói:
- Phu nhân lúc nào trong lòng cũng nhớ đến vua, thực là một người anh kiệt trong đám nữ lưu. Trẫm sẽ vì phu nhân mà đổi lại câu ấy.
Nói rồi vua cầm bút định viết, liền sực tỉnh dậy, hoá ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, vua cho quét vôi câu cũ mà viết lại rằng:
Muôn thuở cương thường không hổ thẹn,
Thư cưu vờn sóng dưới chân đền.
Sau khi về đến kinh đô, nhà vua hạ chiếu cho lập đền thờ phu nhân, cấp ruộng tế và cắt người coi đền, lại sắc phong thần, trong đó có hai chữ “Chế Thắng”. Mãi đến đời nay khói hương vẫn còn nghi ngút, rất là linh ứng.
Ngô Lập Chi dịch
(Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 329 - 343)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống.
Hải khẩu linh từ qua câu chuyện về nàng Bích Châu không chỉ làm hiện lên vẻ đẹp của nàng, mà còn thể hiện tấm lòng , kiên định, xả thân vì nghĩa lớn của Bích Châu. Bên cạnh đó, tác giả Đoàn Thị Điểm cũng qua lịch sử và cảm quan giá trị thời đại mà nhìn nhận, phản ánh và biểu lộ mong mỏi, của mình về một vị vua , những bậc quan lại hiền đức và một xã hội ổn định, .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây