Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Văn bản Mùa xuân của tôi được sáng tác bởi tác giả nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Văn bản Mùa xuân của tôi được trích từ tác phẩm nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Văn bản Mùa xuân của tôi được viết theo thể loại nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản Mùa xuân của tôi là gì?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Bài tùy bút có thể chia thành mấy đoạn?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ vơi vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Xác định bố cục từng đoạn của văn bản Mùa xuân của tôi:
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Xác định nội dung từng đoạn của văn bản bằng cách nối:
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ vơi vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Đâu là vẻ đẹp của mùa xuân miền Bắc?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ vơi vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Văn bản viết về khoảng thời gian và không gian nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Dòng nào sau đây nêu đúng đặc trưng của mùa xuân miền Bắc?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Câu văn dưới đây sử dụng biện pháp tu từ gì?
"Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân."
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Từ "ai" trong câu văn trên đóng vai trò gì trong câu?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Nối các dòng sau để hoàn thành những vẻ đẹp về cảnh sắc mùa xuân đất trời:
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Nối các dòng sau để hoàn thành những vẻ đẹp về cảnh sắc mùa xuân của con người:
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Trong đoạn 3 (từ "đẹp quá đi, mùa xuân ơi" đến hết), cảnh sắc thiên nhiên được tác giả miêu tả như thế nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Trong đoạn 3 (từ "đẹp quá đi, mùa xuân ơi" đến hết), không khí sinh hoạt được tác giả miêu tả như thế nào?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Nhận xét nào sau đây đúng với bức tranh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vào thời điểm sau rằm tháng giêng?
MÙA XUÂN CỦA TÔI
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non(1) đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son(2) nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần(3) và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt(4), mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu(5), gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh(6), có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình(7) của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang(8) như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu(9) mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ(10) êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc(11) của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải ngồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương(12) đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng(13) mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong(14), cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm(15), mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ(16). Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều(17) treo ở đầu bàn thờ ông vải(18) đã hạ xuống từ hôm "hóa vàng"(19) và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
(Vũ Bằng(*), Thương nhớ mười hai,
NXB Văn học, Hà Nội, 1993)
Chú thích:
(*) Vũ Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo đã sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập tùy bút - bút kí Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tên bài do người soạn sách đặt. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy, xa cách quê hương đất Bắc. Nhà văn đã gửi vào những trang sách nỗi niềm thương nhớ da diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Những tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi nhớ mọi cảnh sắc thiên nhiên, phố xá và cuộc sống hàng ngày của Hà Nội. Những cảnh vật ấy mang vẻ đẹp riêng biệt và bản sắc văn hóa tinh tế, độc đáo của một vùng đất nước và cũng là của dân tộc.
(1) Non: ở đây là núi (với nghĩa khái quát và ít khi đứng độc lập, thường xuất hiện trong các từ ghép: núi non, non sông, non nước,...)
(2) Còn son: còn trẻ, chưa có con cái, tuy đã lập gia đình.
(3) Đôi mày ai như trăng mới in ngần: lấy ý từ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp thanh tân của người con gái (đôi lông mày thanh và cong như vầng trăng non đầu tháng).
(4) Bắc Việt: vùng Bắc Bộ Việt Nam. Cũng dùng để chỉ miền Bắc nước ta theo cách gọi ở miền Nam, trong thời kì đất nước tạm bị chia cắt (1954 - 1975).
(5) Riêu riêu (thường viết là riu riu): lửa cháy rất nhỏ và đều. Ở đây tác giả dùng để nói về mưa: mưa phùn, hạt mưa nhỏ, đều và kéo dài.
(6) Đêm xanh: đêm có trăng và bầu trời trong sáng, không có mây.
(7) Huê tình (từ cũ, nay ít dùng): tình yêu trai gái.
(8) Mênh mang: rộng lớn, bao phủ khắp nơi.
(9) Ống điếu: tẩu hút thuốc lá rời.
(10) Giang hồ: chỉ cách sống xê dịch, nay đây mai đó một cách tự do.
(11) Lộc: ở đây là sừng non mới nhú ra.
(12) Uyên ương: loài chim cùng họ với vịt sống ở dưới nước, con đực và con cái không bao giờ rời nhau. Từ đó, "uyên ương" được dùng để ví với đôi lứa vợ chồng gắn bó, đẹp đôi.
(13) Ra ràng (thường dùng để nói về chim): đủ lông cánh, bắt đầu có thể bay ra khỏi tổ. Ở đây tác giả dùng để nói về bướm, bướm non mới ra khỏi kén.
(14) Nhụy vẫn còn phong: nhụy hoa vẫn còn chụm lại, chưa tách nở ra (phong: gói, bọc)
(15) Nồm: trạng thái thời tiết ấm và ẩm ướt ở miền Bắc nước ta, vào dịp cuối đông đầu xuân.
(16) Pha lê: loại thủy tinh đặc biệt, trong suốt và nặng hơn thủy tinh thường.
(17) Điều: màu đỏ tươi, màn điều: tấm màn bằng vải đỏ tươi che trước bàn thờ.
(18) Ông vải: tổ tiên.
(19) Hóa vàng: đốt vàng mã. Theo tục lệ, ngày hóa vàng là ngày kết thúc việc cúng lễ trong dịp Tết, đem tất cả đồ vàng mã đã thờ ấy đi đốt.
Qua tác phẩm, chúng ta thấy tác giả là người như thế nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây