Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Tác giả của văn bản Ý nghĩa của văn chương là ai?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nội dung nào dưới đây không được Hoài Thanh đề cập tới trong bài viết?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nhận định sau đúng hay sai?
Văn bản Ý nghĩa của văn chương, Hoài Thanh đã nêu được một cách đầy đủ và toàn diện về các ý nghĩa của văn chương đối với đời sống của con người.
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Theo Hoài Thanh, nguồn gốc cốt yếu của văn chương là gì?
- Lòng thương người
- và rộng ra là
- muôn vật, muôn loài.
- thương cả
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Đâu là công dụng của văn chương được Hoài Thanh khẳng định trong bài viết?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nối các phần của văn bản với nội dung tương ứng:
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nối các cụm từ với những lời giải thích phù hợp:
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Đâu là quan niệm văn chương của Hoài Thanh, đâu là quan niệm về văn chương của người khác?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Từ "cốt yếu" trong câu: "Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài" được Hoài Thanh dùng với ý nghĩa nào?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nối các dòng sau để chỉ ra những công dụng của văn chương mà Hoài Thanh đã đưa ra:
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Văn bản Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh thuộc dạng nghị luận văn chương nào?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Tại sao Hoài Thanh lại nói: "Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng"?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Vì sao Hoài Thanh nói: "Văn chương còn sáng tạo ra sự sống"?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Dòng nào sau đây không có trong quan niệm về công dụng của văn chương của Hoài Thanh?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Văn bản Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh là văn bản nghị luận thuộc loại nào?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Vì sao nói văn bản Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh là văn bản nghị luận văn chương?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Dòng nào sau đây không phải là đặc sắc nghệ thuật nghị luận của văn bản Ý nghĩa văn chương?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Với một lối văn nghị luận vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh, Hoài Thanh khẳng định: cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của muôn hình vạn trạng và sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm , luyện những tình cảm . Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Nội dung được đề cập tới trong văn bản Ý nghĩa văn chương là gì?
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh là:
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Vị trí của Hoài Thanh trong nền văn học Việt Nam hiện đại là:
Hoài Thanh được xem là
- nhà phê bình
- nhà văn
- nhà thơ
- XXI
- XIX
- XX
Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG
Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ(1) Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca(2).
Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường(3), song không phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương(4) là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. [...]
Văn chương sẽ là hình dung(5) của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. [...]
Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, là lòng vị tha(6). Và vì thế, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha.
Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực(7) lạ lùng của văn chương hay sao?
Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm(8) và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm(9) và rộng rãi đến trăm nghìn lần.
Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì là quá đáng.
[...] Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân(10) và đồng thời trong tâm linh(11) loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực(12) nào!...
(Hoài Thanh(*), trong Bình luận văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
Chú thích:
(*) Hoài Thanh (1909 - 1982): quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa văn chương có lần in lại đã đổi tên nhan đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.
(1) Thi sĩ: nhà thơ.
(2) Thi ca: thơ ca.
(3) Hoang đường: không có thật và không thể tin được do có nhiều yếu tố tưởng tượng và phóng đại quá đáng.
(4) Văn chương: nghĩa rộng bao gồm cả triết học, chính trị học, sử học, văn học,... Nghĩa hẹp là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ; nghĩa hẹp nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.
(5) Hình dung: ở đây được dùng như là danh từ (chứ không phải động từ) do đó có nghĩa là hình ảnh, bóng hình.
(6) Vị tha: vì người khác.
(7) Mãnh lực: sức mạnh ghê gớm về tinh thần.
(8) Phù phiếm: viển vông, không thiết thực.
(9) Thâm trầm: sâu sắc, kín đáo, không dễ dàng để lộ ra bên ngoài những tình cảm cảm, ý nghĩa của mình.
(10) Thi nhân: người làm thơ. Văn nhân: người có học thức, có thể làm văn, làm thơ.
(11) Tâm tình: những gì thuộc về tâm hồn, thế giới bên trong của con người và có phần thiêng liêng, huyền bí, không dễ gì cắt nghĩa hết.
(12) Bực: bậc hay thứ, xếp theo trình độ cao, thấp, trên, dưới.
Hoài Thanh đề cập đến nhiệm vụ nào của văn chương trong bài viết trên?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây