Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Vào chùa gặp lại SVIP
Vào chùa gặp lại là sáng tác của ai?
Vào chùa gặp lại được trích từ cuốn sách nào?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Sắp xếp nội dung sau sao cho đúng với bố cục văn bản Vào chùa gặp lại.
- Cuộc gặp gỡ của Thân - Quân cùng cái kết của mối tình.
- Câu chuyện hơn 20 năm trước của Thân.
- Những việc làm tốt đời, đẹp đạo của Thân khi xuất gia.
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Ngôi kể nào đã được sử dụng trong văn bản?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [....]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Nhân vật nào không trực tiếp xuất hiện trong văn bản Vào chùa gặp lại?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Nối các thông tin để làm rõ mối quan hệ giữa các nhân vật với sư thầy Đàm Thân.
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [..]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Các nhân vật trong truyện đã trải qua cuộc kháng chiến nào?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Trong phần 1 của văn bản, thông tin nào nêu không đúng lời kể của sư thầy Đàm Thân về “một thời đã qua”?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[....] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [....]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [..]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [..]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [..]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Câu chuyện hơn hai mươi năm trước ở chiến trường của nữ quân y Lương Thị Thân có gì đặc biệt?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Lí do gì đã thôi thúc Thân quy y cửa Phật?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Những việc làm tốt đời, đẹp đạo của sư Đàm Thân khi lên bậc sư thầy là gì? (Chọn 2 đáp án)
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Tình huống bất ngờ nào xảy đến với Thân trong những ngày làm trụ trì ngôi chùa?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Khi gặp lại, Hồng Quân đã kể lại chuyện gì với Thân?
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Vì sao Thân từ chối lời cầu khẩn của Quân? (Chọn 2 đáp án)
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Trong phần cuối của văn bản, hành động nào của nhân vật Quân khiến người đọc bất ngờ?
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Những phẩm chất nào của Thân đã được khắc họa qua đoạn trích trên? (Chọn 3 đáp án)
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [..]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Chân dung nhân vật Thân không được tác giả khắc họa qua:
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Phân loại để làm rõ yếu tố hư cấu và yếu tố phi hư cấu trong văn bản.
- Thân về quê với 62% thương tật, hưởng chế độ thương binh 2/4.
- Tác hại của chất độc màu da cam tới những con người đã từng tham chiến.
- Những giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng và thôi thúc Thân quyết tâm xuất gia.
- Câu chuyện về Hồng Quân thoát chết một cách bất ngờ được kể lại sau thời gian xa cách.
- Ngày 12 tháng 2 năm 1975, máy bay địch bắn phá lên đỉnh dốc Chu Linh.
Phi hư cấu:
Hư cấu:
Vào chùa gặp lại
Minh Chuyên
[...] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.
Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]
Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc ở chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo - Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa. [...]
Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]
Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường - Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:
“Đâu vì thân độ đấng thân
Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn”.
Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.
Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô đành chấp nhận. [...]
Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.
Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.
Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.
Đàm Thân bảo:
- Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiều, tối mộ, là bổn phận của nhà chùa.
Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.
Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]
Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:
- Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?
Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:
- Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?
- Mô Phật. Không. - Thân lắc đầu. - Chỉ có một đêm... - Thân nói rồi im lặng.
Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.
Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng đọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- Mô Phật. - Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật - Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.
Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:
- Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?
Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chìa lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:
- Anh là... Quân thật ư?
- Thật. Anh là Quân đây mà.
- Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...
Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.
Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính ngụy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:
- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.
Hồng Quân tiếp:
- Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa.
Quân cảm động nói tiếp:
- Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.
Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa. Thân nói, lòng nghẹn ngào:
- Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.
Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:
- Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.
- Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.
Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.
Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.
Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:
- Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!
Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.
Thân quay sang Bích và bảo:
- Cái đêm hôm ấy là thế đấy.
Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:
- Vậy mà mình cứ ngỡ... thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân. Bích tiếp:
- Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?
- Có! - Thân nói - Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan, bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.
Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:
- Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?
Thân ngượng ngùng, nói:
- Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.
Thân nói tiếp:
- Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]
Bích nói như để an ủi bạn mình:
- Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.
Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.
(In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 2018)
Hình thức ngôn ngữ chủ yếu nào đã được sử dụng trong văn bản?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây