Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Tác giả của Sài Gòn tôi yêu là ai?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Văn bản Sài Gòn tôi yêu thuộc thể loại nào?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản Sài Gòn tôi yêu là?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Văn bản Sài Gòn tôi yêu có thể chia thành mấy đoạn?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Xác định bố cục của văn bản Sài Gòn tôi yêu bằng cách nối:
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Xác định nội dung từng đoạn của bài Sài Gòn tôi yêu:
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Tại sao tác giả nói "Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả"?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Tác giả đã cảm nhận những gì về thành phố Sài Gòn?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Mong ước của tác giả trong văn bản Sài Gòn tôi yêu là gì?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Tác giả không suy nghĩ về Sài Gòn trên phương diện nào sau đây?
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở.
Tác giả đã phát hiện ra những nét riêng nào của thiên nhiên và cuộc sống Sài Gòn?
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở.
Tác giả đã sử dụng phép tu từ gì khi gọi Sài Gòn là "cây mưa"?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Cụm từ nào sau đây nhận xét đúng về đặc điểm của Sài Gòn?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ởi đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Dòng nào sau đây nhận xét đúng về con người Sài Gòn?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Tình cảm của tác giả đối với Sài Gòn là gì?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Những tình cảm của tác giả trong bài được bộc lộ theo phương thức nào?
SÀI GÒN TÔI YÊU
Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm(1) so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trân trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này.
Tôi yêu Sài Gòn da diết... Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió, nhớ thương, dưới những cây mưa(2) nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui(3) buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở. Nếu cho là cường điệu thì xin thưa:
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi(4) họ hàng.
Ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me... mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn bao giờ cũng dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa(5) mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà(6), dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chơn thành(7), bộc trực.
Các cô gái thị thiềng(8) lúc đó thì tóc buông thõng trên vai, trên lưng. Có khi tết bím. Đội nón vải(9) trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo(10). Áo bà ba trắng đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn(11) trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi(12). Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng còn theo cung cách Bến Nghé(13). Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây.
Bấy giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá(14). Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm, tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh.
Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lại có vẻ hơi "cổ xưa" nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm(15), tự ti(16).
Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhứt của đất nước, thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giới đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975.
Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn, đứng ở góc độ nào đó mà xem xét, cũng là một đô thị hiền hòa. Sài Gòn ngày nay cũng rất ít chim. Đến mùa, một ít nhạn, én bay về trú đóng, dưới các mái nhà cao tầng, mái đình, mái chùa. Thỉnh thoảng mới thấy vài chị quạ, chị sáo, vài chị vành khuyên, sắc ô(17), áo già(18)... Nhiều nhứt là họ hàng se sẻ mà bây giờ cũng thấy thưa thớt dần. Trước kia, rất nhiều cả cò, cả vạc sổng lồng trong Sở thú(19) bay ra làm tổ trên ngọn cây dầu, cây sao cao ngất với các chị cu gáy, chị quạ, chị sáo. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống và chẳng thèm đếm xỉa đến luật bảo vệ thiên nhiên, với những nòng súng hơi ác độc, đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố.
Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có người. Sài Gòn rộng mở và hào phóng, là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ(20) đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu.
Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi ước mong mọi người, nhất là các bạn trẻ đều yêu Sài Gòn như tôi.
Xóm Chợ Đũi, cuối tháng 12 - 1990
Theo Minh Hương, trong Nhớ Sài Gòn,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994)
Chú thích:
(1) Ba trăm năm: tính từ thời điểm thành lập phủ Gia Định dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm 1697. Thành Gia Định sau trở thành thành phố Sài Gòn, thủ phủ của xứ Nam Kì. Từ sau tháng 4 năm 1975, Sài Gòn mang tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước.
(2) Cây mưa: trận mưa lớn, nhanh và không kéo dài.
(3) Ui ui (từ địa phương): thời tiết không nắng hoặc nắng dịu, nhưng oi oi, khó chịu.
(4) Tông chi: các chi trong một họ, cũng chỉ chung họ hàng.
(5) Bản địa: bản thân địa phương được nói đến.
(6) Hề hà (từ địa phương): dễ dãi và vui vẻ.
(7) Chơn thành: chân thành.
(8) Thị thiềng: thị thành.
(9) Nón vải: mũ may bằng vải.
(10) Hướng đạo: một tổ chức tập hợp thiếu niên, thanh niên học sinh dưới thời Pháp thuộc, để vui chơi và rèn luyện. Các hướng đạo sinh khi tham dự các hoạt động của đoàn hướng đạo phải mặc đồng phục có mũ vải mềm rộng vành.
(11) Guốc vông trơn: guốc đẽo bằng loại gỗ vông xốp và nhẹ, để mộc không sơn.
(12) Cá mòi: Cá biển, nhỏ, thân dẹp. Cá mòi thường được đóng hộp làm thực phẩm, hộp cá mòi hình bầu dục và dẹt.
(13) Bến Nghé: tên gọi cũ sông Sài Gòn. Cũng dùng để gọi thành Gia Định xưa, hay vùng Sài Gòn.
(14) Xá: vái (chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu, để tỏ lòng cung kính).
(15) Mặc cảm: thầm nghĩ rằng mình không bằng người và cảm thấy buồn.
(16) Tự ti: tự đánh giá mình thấp kém, thiếu tự tin.
(17) Sắc ô: loài chim có lông màu đen.
(18) Áo già: loài chim có lông màu nâu đậm.
(19) Sở thú: vườn bách thú ở Sài Gòn, còn gọi là thảo cầm viên.
(20) Tứ xứ: bốn phương, mọi nơi.
Câu văn nào dưới đây bộc lộ tình cảm của tác giả một cách gián tiếp?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây