Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 3 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
ÔNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)
I. TÌM HIỂU CHUNG
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Hai khổ thơ đầu: Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý:
2. Hai khổ thơ tiếp: Ông đồ bị lãng quên:
- Vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu, giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Ông đồ “vẫn ngồi đấy”, giữa phố xá đông người qua lại nhưng lẻ loi, lạc lõng, không ai biết, không ai hay.
- Biện pháp nhân hóa:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Đã nói lên một cách thấm thía nhất, đắt nhất nỗi buồn tủi, xót xa của nhà nho buổi thất thế. Nỗi buồn tủi thấm đẫm lên cả những vật vô tri, vô giác. Ông đồ “ngồi đấy” chứng kiến và nếm trải tấn bi kịch của cả một thế hệ. Đó là sự tàn tạ suy sụp hoàn toàn của nền Nho học.
- Biện pháp tả cảnh ngụ tình: không gian ảm đạm, thê lương, cảnh vật tàn tạ.
3. Khổ thơ cuối: Ông đồ “người muôn năm cũ”.
- Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn nhưng người thì không thấy nữa: “Không thấy ông đồ xưa”. Tứ thơ: cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh “người muôn năm cũ” gợi lên trong lòng người đọc niềm thương cảm, tiếc thương vô hạn.
- “Người muôn năm cũ”, trước tiên là các thế hệ nhà nho và sau đó còn là “bao nhiêu người thuê viết” thời đó. Vì vậy, “hồn” ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh hồn của nét sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của người Việt Nam hàng trăm nghìn năm qua.
- Hai câu thơ cuối là câu hỏi nhưng không để hỏi mà như một lời tự vấn. Dấu chấm hỏi đặt ở cuối bài thơ rơi vào im lặng mênh mông nhưng từ đó dội lên bao nhiêu nỗi niềm. Đó là nỗi day dứt, tiếc nhớ, thương xót ngậm ngùi của tác giả và cũng là của cả một thế hệ các nhà thơ Mới. Đó là nỗi mong ước tìm gặp lại vẻ đẹp của một thời đã qua.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung:
- Bài thơ thể hiện sự trân trọng với một lớp người tài hoa, nghệ sĩ.
- Bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm cảm thương, tiếc nuối của tác giả với một lớp người, một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng, khai thác của hiệu quả nghệ thuật cao.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng, góp phần làm nổi bật chủ đề của bài thơ: thể hiện tình cảnh thất thế, tàn tạ, đáng buồn của ông đồ, sự sụp đổ của nền Nho học, sự mai một của một giá trị văn hóa cổ truyền.
- Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, đồng thời hàm súc, dư ba.
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây