Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Phân tích một tác phẩm thơ SVIP
PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM THƠ
1. Định hướng
1.1. Khái niệm: Phân tích một tác phẩm thơ là chỉ ra và làm rõ những điểm nổi bật (thành công, có thể cả hạn chế) trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
1.2. Yêu cầu:
2. Thực hành
2.1. Thực hành viết theo các bước
Đề bài: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương.
a) Chuẩn bị
- Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu cần thực hiện.
- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại bài thơ Vịnh khoa thi Hương, chú ý đến đặc điểm của bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
- Lựa chọn một vài hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm để phân tích.
Ví dụ: nghệ thuật trào phúng của bài Vịnh khoa thi Hương qua việc lựa chọn hình ảnh, ngôn từ và sử dụng phép đối.
b) Tìm ý và lập dàn ý
- Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi:
+ Chủ đề của bài thơ là gì?
+ Nghệ thuật trào phúng của bài thơ có gì đặc sắc? Ví dụ:
- Trần Tế Xương đã chọn những hình ảnh nào của khoa thi Hương năm Đinh Dậu? Hình ảnh đó có gì đặc biệt?
- Việc lựa chọn từ ngữ để khắc hoạ các hình ảnh trên có gì độc đáo? Có thể thay bằng các từ ngữ khác được không?
- Tác giả đã vận dụng các phép đối như thế nào để nghệ thuật trào phúng được phát huy triệt để?
- Các hình thức nghệ thuật trên đã làm rõ chủ đề của bài thơ như thế nào?
- Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
* Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài Vịnh khoa thi Hương, tác giả và nghệ thuật trào phúng của bài thơ.
* Thân bài
+ Nêu chủ đề bài thơ.
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao nhà thơ lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng.
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn ngôn từ (thống kê các từ ngữ mà tác giả lựa chọn và chỉ ra tác dụng của chúng).
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả sử dụng trong bài thơ.
+ Nêu lên những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
* Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày: Nội dung và một số hình thức nghệ thuật của bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã cho thấy tài năng trào phúng bậc thầy của Trần Tế Xương.
c) Viết
Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài văn phân tích một bài thơ. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách phân tích các yếu tố hình thức của thơ.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Bài viết tham khảo:
Có lẽ bài thơ Vịnh khoa thi Hương là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bài thơ miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả về vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó.
Tính chất tạp nham, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Những nhân vật trọng tâm của trường thi - sĩ tử và quan trường - được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi, quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ "lôi thôi" này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến. "Lọ" ở đây có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh "vai đeo lọ" vẫn nổi lên thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai.
Đối với đám sĩ tử như thế, còn bọn quan trường cũng được Tú Xương tìm cho một từ thật xứng đáng:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Bọn sĩ tử thì "lôi thôi"; lũ quan trường thì "ậm oẹ". “Ậm oẹ” là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đông, nên quan trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thôi. Nhưng chính từ ngữ "ậm oẹ" hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị. Nó bộc lộ thực chất và chân tướng tay sai của đám quan trường này. “Ậm oẹ” là âm thanh ú ớ, nói không thành tiếng rõ, nhưng cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi chứ không có thực quyền. Cho nên, nếu "thí sinh" mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì giám thị, giám khảo cũng không còn cái dáng nghiêm trang đáng tôn kính nữa.
Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.
Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Tác giả lại tiếp tục "tả thực" cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tôn công sứ Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sỏi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn.
Hình ảnh quan Tây, mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy cảnh mất nước của chúng ta.
Nhưng cái thú vị nhất trong hai câu thơ này không phải chỉ có bấy nhiêu chi tiết đó. Cái thú vị nhất chính là Tú Xương đã biến nghệ thuật làm thơ Đường thành một vũ khí sắc bén để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình không ưa thích.
Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương đã đặt cái "váy" của bà đầm ngang với cái "lọng" của ông Tây. Nói cách khác, ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau, Tú Xương đã chơi một vố rất đau và rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Và cũng trong nghệ thuật đối, "quan sứ" đối với "mụ đầm" là một dụng ý của Tú Xương. “Quan sứ” là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng "mụ đầm" là chữ "chơi xỏ", là chữ để chửi. “Mụ” là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì. Gọi ông quan Tây thì trang trọng, nhưng gọi vợ ông quan là con mụ chẳng ra gì, đó là một cách chửi của Tú Xương.
Người ta nói "văn học là suy tư chứ không phải là miêu tả". Chính ở trong trường hợp này, qua miêu tả, nhà thơ Tú Xương đã thể hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ phê phán sắc bén. Cho nên, đậm đà chất hiện thực, nhưng thơ Tú Xương không phải chỉ là hiện thực đơn điệu, lạnh lùng, ở trong hiện thực mà ông phơi bày có cơn giận và niềm đau của tâm hồn, của tấm lòng con người.
Cho nên, không lạ gì, đứng trước cảnh oái oăm và nhục nhã ấy, nhà thơ đã buột miệng thốt lên:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà thơ. “Nhân tài” ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này?
Kết thúc bài thơ Chạy Tây, Nguyễn Đình Chiểu cũng kêu gọi:
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.
Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây".
Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi "ngoảnh cổ mà trông". “Ngoảnh cổ” là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ" của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.
Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: Hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân). Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ Vịnh khoa thi Hương, Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam.
Trần Phò
GV. Chuyên văn Trường THPT Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh
Trả lời câu hỏi:
2.2. Rèn luyện kĩ năng phân tích tác dụng của hình thức thơ
a) Cách thức
- Mỗi thể loại văn học đều có những hình thức tiêu biểu, nổi bật. Để thể hiện nội dung và cảm xúc, thơ nói chung thường sử dụng một số yếu tố hình thức như: vần, nhịp, từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ,....
- Mỗi yếu tố hình thức của văn bản thơ đều có tác dụng trong việc biểu đạt nội dung (cảm xúc, tình cảm, tư tưởng,...). Khi đọc và phân tích thơ, cần chỉ ra tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc biểu hiện nội dung. Cần tránh việc chỉ nêu nội dung hoặc chỉ nêu hình thức, không thấy mối quan hệ của hai yếu tố ấy.
b) Bài tập
Trong các đoạn văn dưới đây, người viết đã tập trung phân tích tác dụng của yếu tố hình thức nào của văn bản thơ?
- Đoạn 1: “Trong không khí lắng sâu ấy của đất trời, một hình ảnh hiện lên:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Ánh trăng bao phủ trùm lên cổ thụ. Ánh trăng lồng vào tán lá. Cành lá cắt ánh trăng thành những mảng trắng đen lẫn lộn, những bóng trăng và bóng cây. Hai lớp bóng ấy lại trùm lên, lồng vào khóm hoa và bóng hoa, bóng trăng, bóng cây lại in lên mặt đất. Chỉ có tối và sáng, trắng và đen loang loáng ánh bạc. Sắc màu bề ngoài mát lạnh. Mọi vật im phăng phắc. Ấy thế mà bên trong, thiên nhiên lại vận động ấm áp vô chừng. ”.
(Lê Trí Viễn)
--> Người viết đã tập trung phân tích hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” và nhấn mạnh tác dụng của hình ảnh này đó là gợi lên không gian vắng lặng, nhưng bên trong lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.
- Đoạn 2: “Các từ láy “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn” gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm, một tâm trạng quạnh hiu, xa vắng. “Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng” - nhịp điệu thơ trôi nhẹ như ru hồn về một thời xa xăm. Chữ “ngày không” thật đầy sức gợi.”.
(Lê Quang Hưng)
- Đoạn 3: “Trong hai câu thực, nhà thơ dùng thủ pháp cực tả, nói quá và biếm hoạ hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Ậm oẹ” lên trước cũng biếm hoạ ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ớ, dớ dẩn.”.
(Nguyễn Hữu Sơn)
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây