K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Hôm kia

đổi 24\(\dfrac{3}{5}\)m=14,4m; 18\(\dfrac{9}{20}\)phút=8,1phút

Thời gian Nhung đi từ A đến B là

14,4 chia 8,2 ≈ 1,8 phút

Thời gian Nhung đi từ B đến C là

8,1-1,8=6,3 phút

Quãng đường từ C đến B là

14,4-8,6=5,8m

Vận tốc của Nhung khi di chuyển từ B đến C là

5,8 chia 6,3 ≈ 0,92 m/phút

12 tháng 11

Thời gian đi được nửa quãng đường đầu :

\(t_1=\dfrac{s_1}{v_1}=\dfrac{2}{20}=0,1\left(h\right)\)

Thời gian đi được nửa quãng đường sau :

\(t_2=\dfrac{s_2}{v_2}=\dfrac{2}{10}=0,2\left(h\right)\)

Tốc độ trung bình cả quãng đường từ nhà đến trường :

\(v_{tb}=\dfrac{s_1+s_2}{t_1+t_2}=\dfrac{2+2}{0,1+0,2}=13,33\left(km/h\right)\)

8 tháng 11

                        Giải:

  a; 60m = 0,06 km; 10s = \(\dfrac{1}{360}\) giờ; 20m = 0,02 km

Vận tốc của người đó đi trên quãng đường đầu là:

           0,06 : \(\dfrac{1}{360}\) = 21,6 (km/h)

b;  Thời gian người đó đi hết quãng đường sau là:

            0,02 : 3,6 = \(\dfrac{1}{180}\) (giờ)

         Áp dụng công thức Vtb = \(\dfrac{S_1+S_2}{t_1+t_2}\) ta có: 

     Tốc độ của xe đó trên cả 2 quãng đường là:

          \(\dfrac{0,06+0,02}{\dfrac{1}{360}+\dfrac{1}{180}}\)  = 9,6 (km/h)

Kết luận: a; Vận tốc của người đó trên quãng đường đầu là 21,6 km

               b; Vận tốc của người đó trên cả quãng đường là 9,6 km

        

 

            

 

          

Vận tốc của người đó trên cả quãng đường là:

           

         

 

 

5 tháng 11

\(t_1=\dfrac{s_1}{v_1}=\dfrac{15}{30}=0,5\left(h\right)\)

\(t_2=30\left(phút\right)=0,5\left(h\right)\)

\(t_3=10\left(phút\right)=\dfrac{1}{6}\left(h\right)\)

Tốc độ trung bình của xe máy trên cả đoạn đường :

\(v_{tb}=\dfrac{s_1+s_2+s_3}{t_1+t_2+t_3}=\dfrac{15+45.0,5+6}{\dfrac{1}{2}+\dfrac{1}{2}+\dfrac{1}{6}}=\dfrac{43,5}{\dfrac{7}{6}}\sim37,3\left(km/h\right)\)

4 tháng 11

                             Giải:

Thời gian ô tô xuất phát trước xe khách là: 10 giờ - 7 giờ = 3 giờ

Khi xe khách xuất phát ô tô cách xe khách là: 30 x 3 = 90 (km/h)

Hai xe gặp nhau sau: 90 : (60 - 30) = 3 (giờ)

Lúc gặp nhau cách A là: 60 x 3 = 180 (km)

Lúc gặp nhau cách B là:  230 - 180 = 50 (km)

Kết luận: Hai xe gặp nhau sau 3 giờ 

              Vị trí gặp nhau cách A là 180 km, cách B là 50 km

 

       

 

 

6 tháng 11

                 Giải:

Thời gian người đó đi quãng đường đầu là: t1 =  8 : 12 = \(\dfrac{2}{3}\)(giờ)

Thời gian người đó nghỉ sửa xe là: t2 = 40 phút = \(\dfrac{2}{3}\) giờ

Thời gian người đó đi hết quãng đường sau là: t3 = 12 : 9 = \(\dfrac{4}{3}\) (giờ)

Ta có đồ thị quãng đường thời gian là:

    

22 tháng 9

Tốc độ của vận động viên là:

`v = S : t = 100 : 10,5  \approx 9,52 (m`/`s`)`

Vậy: Tốc độ của vận động viên khoảng: `9,52 m`/`s`

19 tháng 9

Số p của mỗi nguyên tử của nguyên tố X = số e. Vậy số p là:

12 : 2 = 6 (p)

⇒ Điện tích hạt nhân là: +6

Số n của mỗi nguyên tử của nguyên tố X là:

12 : 2 = 6 (n)

Khối lượng mỗi nguyên tử của nguyên tố X là:

6 + 6 = 12 (amu)

3 tháng 9

Để giải quyết bài toán này, chúng ta cần xem xét cách ánh sáng phản xạ qua gương phẳng khi gương quay.

Trường hợp a: Trục quay O đi qua điểm tới I

  1. Phân tích tình huống:

    • Giả sử gương phẳng M đang ở một góc với tia tới, và ánh sáng phản xạ theo định luật phản xạ (góc tới = góc phản xạ).
    • Khi gương quay quanh điểm tới I, mỗi điểm trên gương quay cùng một góc α (alpha) quanh điểm I.
  2. Tính toán góc quay của tia phản xạ:

    • Khi gương quay một góc α quanh điểm I, các góc tới và phản xạ thay đổi cùng với góc quay của gương.

    • Góc giữa tia tới và gương lúc đầu là góc tới (θ). Khi gương quay một góc α quanh điểm tới I, góc giữa tia tới và gương vẫn là θ (vì điểm tới không thay đổi).

    • Tia phản xạ cũng quay quanh điểm I một góc α.

    • Do định luật phản xạ (góc tới = góc phản xạ), và gương quay góc α quanh điểm tới, tia phản xạ sẽ quay một góc 2α so với vị trí ban đầu.

    Kết luận: Trong trường hợp này, khi gương quay quanh điểm tới I một góc α, tia phản xạ quay một góc 2α.

Trường hợp b: Trục quay O ở ngoài điểm tới I

  1. Phân tích tình huống:

    • Giả sử trục quay O nằm ngoài điểm tới I, nghĩa là gương quay quanh một trục không đi qua điểm tới.
  2. Tính toán góc quay của tia phản xạ:

    • Trong trường hợp này, khi gương quay một góc α quanh trục O, điểm tới I di chuyển cùng với gương, và góc tới có thể thay đổi.

    • Góc giữa tia tới và gương ban đầu là θ. Khi gương quay một góc α quanh trục O, góc giữa gương và tia phản xạ thay đổi, làm cho tia phản xạ quay một góc không thể tính trực tiếp từ α một cách đơn giản.

    • Để xác định góc quay chính xác của tia phản xạ, chúng ta cần áp dụng các phép toán phức tạp hơn về hình học và động học của ánh sáng trong không gian 3D.

    Kết luận: Trong trường hợp này, góc quay của tia phản xạ không đơn giản là 2α mà phụ thuộc vào cách gương quay và cấu trúc không gian. Tuy nhiên, trong thực tiễn, thường sử dụng các phần mềm hoặc tính toán chi tiết hơn để xác định chính xác.

Tóm lại, trong trường hợp gương quay quanh điểm tới I, tia phản xạ quay một góc 2α. Trong trường hợp gương quay quanh một trục ngoài điểm tới I, góc quay của tia phản xạ cần được tính toán cụ thể hơn dựa trên vị trí trục quay và cách ánh sáng phản xạ.