K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 11

  \(x=3y\) và y = 5\(x\)  thay y = 5\(x\) vào \(x\) = 3y ta có: \(x\) = 3.5\(x\) 

    ⇒ \(x\)   = 15\(x\) ⇒ \(x-15x\) = 0 ⇒ \(-14\)\(x\) = 0 ⇒ \(x=0\)

Thay \(x\) = 0 vào y = 5\(x\) ta được:  y= 5.0 = 0

Vậy \(x=3\)y; y = 5\(x\) thì y = 0 

 

Đề thi đánh giá năng lực

8 tháng 11

em chỉ thử làm thôi ạ:

Tương tự như thế vậy xuống 100m thì tăng 0,6 độ C và xuống 1000m thì tăng 6 độ C

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:     Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:

    Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về vấn đề ý thức tự học ở giới trẻ.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc đoạn trích sau: ... Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc Hai tiếng động nhỏ bé kia Hơn mọi ầm ào gào thét Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người Đó là thời gian Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu Thời gian – đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau Thời gian – đó là chiều...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau:

... Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc

Hai tiếng động nhỏ bé kia

Hơn mọi ầm ào gào thét

Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người

Đó là thời gian

Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại

Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối

Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu

Thời gian – đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau

Thời gian – đó là chiều dày những trang ta viết.

(Trích Cho Quỳnh những ngày đi xa, Di cảo Lưu Quang Vũ, NXB Trẻ, 2028, tr.29 – 30)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Vì sao tiếng Kim đồng hồ tích tắc lại trở thành tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong trường hợp sau:

Hai tiếng động nhỏ bé kia

Hơn mọi ầm ào gào thét

Câu 4. Lưu Quang Vũ có cách cảm nhận thời gian như thế nào trong hai câu thơ cuối?

Câu 5. Theo anh/chị, hai cách cảm nhận về thời gian trong đoạn trích sẽ chi phối như thế nào tới đời sống con người?

0
II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau: Đoạn trích 1: NHÀ MẸ LÊ Thạch Lam      Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI).

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:

Đoạn trích 1:

NHÀ MẸ LÊ

Thạch Lam

     Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.

     Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.

(Trích Nhà mẹ Lê, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2015, trang 28 - 29)

Đoạn trích 2:

LÀM MẸ

Nguyễn Ngọc Tư

   (Lược phần đầu: Dì Diệu và chú Đức lấy nhau đã nhiều năm nhưng không có con vì năm cưới chú, việc cắt khối u buồng trứng đã khiến dì không thể tự sinh con. Bởi niềm khao khát về đứa con chưa lúc nào nguôi nên dì bàn với chú Đức tìm người mang thai hộ. Chị Lành gánh nước thuê vì hoàn cảnh gia đình ngặt nghèo nên nhận lời giúp chú dì. Em bé trong bụng chị Lành ngày một lớn đem đến niềm vui vô bờ cho chú dì, và cũng dấy lên tình mẫu tử ở chị Lành.)

   Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:

   – Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè.

   Dì Diệu hớn hở vén bụng chị Lành lên, dưới làn da căng mẫn, đứa bé con chòi đạp rối rít. Chị Lành cười giòn:

   – Nó mạnh quá chị ha....

   Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở cho một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng, tới chảy nước dãi món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được: cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.

   Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé khóc ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa. Hợp đồng đã ghi rõ ràng như vậy. Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu. Chị rối rít ăn, rối rít ngủ vì biết rằng mai nầy rồi chẳng còn nhau...

(Nguyễn Ngọc Tư, Làm mẹ, Tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, 5/2024)

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc đoạn trích sau: CHÙA VẠN NIÊN – NGÔI CHÙA CỔ NGÀN NĂM TUỔI BÊN BỜ HỒ TÂY       Chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử, chùa Vạn Niên vẫn giữ nguyên nét cổ kính, trầm mặc giữa không gian hối hả, nhộn nhịp của Hà thành.       Dưới triều đại Lý Thuận Thiên vào năm 1014, Thiền sư Hữu Nhai Tăng đã xin vua lập giới đàn tại vị trí hiện tại của chùa Vạn Niên. Kể...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau:

CHÙA VẠN NIÊN – NGÔI CHÙA CỔ NGÀN NĂM TUỔI BÊN BỜ HỒ TÂY

      Chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử, chùa Vạn Niên vẫn giữ nguyên nét cổ kính, trầm mặc giữa không gian hối hả, nhộn nhịp của Hà thành.

      Dưới triều đại Lý Thuận Thiên vào năm 1014, Thiền sư Hữu Nhai Tăng đã xin vua lập giới đàn tại vị trí hiện tại của chùa Vạn Niên. Kể từ đó, ngôi chùa này đã được xây dựng và tồn tại mãi cho đến tận ngày hôm nay. 

  Chùa Vạn Niên là một công trình nghệ thuật bằng gỗ với hoa văn họa tiết vừa bản địa, vừa tiếp nhận văn hóa phương Đông. Các nếp nhà được xây dựng hướng Đông theo bố cục mặt bằng gồm tam quan, chùa chính điện Mẫu (thờ Bà chúa Liễu Hạnh), nhà tăng, nhà phụ. Bao quanh kiến trúc là vườn cây cổ thụ tôn thêm vẻ đẹp và tạo sự u tịch, tĩnh lặng nơi cửa thiền, làm nên một tổng thể di tích văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, hài hòa. Chùa Vạn Niên đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1996.

      Qua hơn 1.000 năm, ngôi chùa đã được được trùng tu và tôn tạo nhiều lần. Các kiến trúc tam quan, tiền đường, nhà Tổ, nhà khách, lầu Quan Âm, các mảng hoa văn truyền thống trên cột, kèo... được chạm trổ tỉ mỉ, sử dụng đề tài trang trí quen thuộc của người Việt như Tứ Linh và Tứ Quý.

    Tuy nằm ngay bên mặt đường Lạc Long Quân luôn tấp nập người, xe qua lại, nhưng phía sau cổng chùa là sự cổ kính, thanh tịnh… Không gian chùa không lớn nhưng được bao trùm một màu xanh mát của những cây cổ thụ nhiều năm tuổi.

      Theo Thăng Long cổ tích khảo, thì "Chùa ở bờ Tây hồ Tây... Lý Thuận Thiên năm thứ 5 (1014), Hữu Nhai tăng thống xin tâu lập giới đàn tại đây, thụ giới cho các Tăng đồ. Vua xuống chiếu ban cho. Bấy giờ, danh tăng Lâm Tuệ Sinh, Thảo Đường thời Lý kế thừa trụ trì ở đây".

      Hiện chùa còn giữ bộ di vật với hơn 40 pho tượng tròn và 10 đạo sắc phong thần của thời Lê, Tây Sơn có giá trị lịch sử - văn hóa nghệ thuật cao. Tại chùa có bức tượng phật Thích Ca, cao hơn 1,3m và nặng 600kg, được làm từ ngọc Phỉ Thúy (Jadeit tự nhiên), làm cho bộ di vật của ngôi chùa thêm độc đáo.

      Chùa Vạn Niên đang ngày một khang trang và được nhiều Phật tử gần xa biết đến. Không chỉ là điểm đến tâm linh mà chùa còn trở thành một địa điểm du lịch được du khách trong và ngoài nước lựa chọn khi đến thăm Thủ đô. Tuy có nhiều đổi mới nhưng chùa vẫn giữ được nét đẹp cổ kính và độc đáo về văn hóa kiến trúc xen giữa lòng thủ đô hiện đại và phát triển.

(Theo Huyền Hoa, https://danviet.vn/chua-van-nien-ngoi-chua-co-ngan-nam-tuoi-ben-bo-ho-tay-20240429084512746.htm)

Thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5 (trình bày ngắn gọn): 

Câu 1. Văn bản đề cập đến thông tin nào? 

Câu 2. Liệt kê các chi tiết, sự kiện xác thực được nhắc tới trong văn bản. 

Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu: Tuy nằm ngay bên mặt đường Lạc Long Quân luôn tấp nập người, xe qua lại, nhưng phía sau cổng chùa là sự cổ kính, thanh tịnh…

Câu 4. Việc kết hợp thủ pháp trần thuật với miêu tả trong văn bản có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của văn bản?

Câu 5. Theo anh/chị, hình ảnh chùa Vạn Niên nói riêng và những công trình văn hóa lâu đời nói chung tồn tại trong cuộc sống xô bồ, hối hả hiện nay có ý nghĩa như thế nào?

0
7 tháng 11
Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/chị về nhân vật “tôi” trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.

Đoạn văn cảm nhận về nhân vật "tôi":

Nhân vật "tôi" trong đoạn trích thể hiện một tâm hồn nhạy cảm và đầy suy tư về cuộc sống xung quanh. Mặc dù có thể chưa đủ trưởng thành để hiểu hết mọi điều trong xã hội, "tôi" vẫn luôn đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời về bản thân và thế giới. Cách nhân vật "tôi" nhìn nhận sự vật, hiện tượng, không phải theo cách đơn giản mà là một góc nhìn sâu sắc, đầy sự trăn trở. Qua những cảm nhận và suy nghĩ của "tôi", người đọc có thể thấy được một nhân vật đang trong quá trình tự nhận thức, tìm kiếm sự thật và những giá trị sống cho riêng mình. Hành trình tìm hiểu này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chính sự chân thành và khao khát hiểu biết của "tôi" đã tạo nên một hình ảnh đáng trân trọng và đầy tính nhân văn.

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về vấn đề áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay.

Bài văn nghị luận:

Áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay

Áp lực đồng trang lứa là một vấn đề ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại, đặc biệt là đối với giới trẻ. Đây là sự tác động mạnh mẽ từ bạn bè, từ nhóm người cùng lứa tuổi, khiến các bạn trẻ phải thay đổi bản thân, làm những điều mà họ không thật sự mong muốn, chỉ vì muốn được chấp nhận và hòa nhập. Vấn đề này đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển tâm lý và nhân cách của giới trẻ.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến áp lực đồng trang lứa là sự xuất hiện mạnh mẽ của các mạng xã hội. Trên các nền tảng này, mọi người dễ dàng so sánh bản thân với những người khác, từ ngoại hình, thành tích học tập đến phong cách sống. Những hình ảnh hoàn hảo, những cuộc sống đầy màu sắc của người khác dễ dàng khiến giới trẻ cảm thấy thiếu tự tin và muốn thay đổi để phù hợp với tiêu chuẩn mà xã hội đang đặt ra. Chính sự kỳ vọng không thực tế này tạo ra một áp lực vô hình, làm mất đi bản sắc cá nhân và sự tự tin vốn có của mỗi người.

Thêm vào đó, việc nhóm bạn bè, bạn cùng lớp hay các cộng đồng đồng trang lứa có những quan điểm, sở thích chung cũng là một yếu tố làm gia tăng áp lực này. Để không bị cô lập, nhiều bạn trẻ đã lựa chọn làm theo, bất chấp đó có phải là điều mình thực sự muốn hay không. Họ có thể đánh mất chính mình chỉ vì sợ bị tẩy chay hoặc cảm thấy không đủ khả năng để theo kịp nhịp sống của những người xung quanh.

Tuy nhiên, không phải lúc nào áp lực đồng trang lứa cũng chỉ có tác động tiêu cực. Trong một số trường hợp, nó cũng có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân. Khi phải đối diện với những kỳ vọng từ bạn bè, giới trẻ có thể rèn luyện tính kiên trì, kỷ luật và khả năng tự vượt qua giới hạn bản thân. Chẳng hạn, khi một nhóm bạn học giỏi, chăm chỉ, họ sẽ tạo động lực cho nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra khi áp lực được xử lý một cách tích cực và không làm mất đi sự tự tin hay giá trị cá nhân.

Để giảm thiểu tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa, giới trẻ cần phải có sự nhận thức và suy nghĩ độc lập. Họ cần biết cách chấp nhận và yêu thương bản thân, hiểu rằng không có ai là hoàn hảo và mỗi người đều có những giá trị riêng. Gia đình, thầy cô và cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường lành mạnh, nơi mà các bạn trẻ có thể tự do phát triển mà không phải lo lắng về việc phải thay đổi để được chấp nhận. Hơn nữa, các bậc phụ huynh cần giáo dục con cái về việc đối diện với áp lực, biết cách từ chối những yêu cầu không cần thiết từ bạn bè, và quan trọng hơn là làm chủ cuộc sống của chính mình.

Tóm lại, áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay là một vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Để vượt qua những áp lực này, giới trẻ cần trang bị cho mình một tâm lý vững vàng, biết yêu thương và chấp nhận bản thân, đồng thời xây dựng những mối quan hệ lành mạnh, tích cực, nơi họ có thể phát triển mà không sợ bị áp lực từ người khác.