Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Bài tập tự luận SVIP
Phân tích khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh ở trích đoạn Cảnh ngày xuân.
Hướng dẫn giải:
1/ Giới thiệu chung:
- Nguyễn Du - đại thi dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến ông người ta nhớ ngay tới "Truyện Kiều" - một đỉnh cao chói lọi của thơ ca dân tộc. Tác phẩm không chỉ có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà còn thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du ở các phương diện: cá thể hóa nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật, kết hợp ngôn ngữ bình dân và bác học... Ngòi bút của ông cũng nhiều khi làm say đắm lòng người bởi những đoạn tả cảnh tuyệt bút, ví như đoạn "Cảnh ngày xuân".
- Đoạn trích nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh,chị em Kiều đi chơi xuân. Bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội mùa xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc vui của chị em Thúy Kiều.
2/ Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:
* Lời giới thiệu (2 câu thơ đầu):
- Nghệ thuật tiểu đối cùng việc tách từ “lễ hội” ra làm đôi -> giúp Nguyễn Du miêu tả hai hoạt động cùng diễn ra trong ngày hội xuân: lễ tảo mộ và hội đạp thanh.
- Gợi: sự giao hòa:
+ Lễ: là lòng tri ân tổ tiên
+ Hội: là dịp những người trẻ tuổi đi du xuân, thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân.
=> Trong tiết Thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi tảo mộ ( lễ) và đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội).
- Tác giả sử dụng một loạt các từ hai âm tiết ( cả từ ghép và từ láy) để gợi lên không khí lễ hội thật tưng bừng, rộn rã:
+ Các danh từ: “yến anh”,”chị em”,”tài tử”,”giai nhân”,”ngựa xe”,”áo quần”… -> Gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội.
+ Các động từ: “sắm sửa”,”dập dìu”,… -> Gợi tả sự rộng ràng, náo nhiệt của ngày hội.
+ Các tính từ: “gần xa”,”nô nức”… -> Tâm trạng của người đi hội.
- Cách nói ẩn dụ: “Gần xa nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Mặt khác: gợi những xôn xao trong cuộc chuyện trò, gặp gỡ; những háo hức, tình tứ của những đôi lứa uyên ương.
+ Biện pháp so sánh: “ngựa xe…”: tái hiện sự đông đúc, từng đoàn người chen vai thích cánh đi chơi xuân chật như nêm. -> nhằm tái hiện niềm vui ngày hội đang lan tỏa, bao trùm lên khắp nhân gian.
- Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gợi lên một tập tục, một nét đẹp truyền thống của văn hóa lễ hội xa xưa. Các trang tài tử giai nhân vui xuân mở hộinhưng không quên những người đã mất:
"Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay."
+ Giây phút con người trong tuổi trẻ và mùa xuân thăm viếng, sửa sang quét tước phần mộ người thân, rắc vàng vó, đốt tiền giấy cho họ.
+ Gợi một truyền thống đẹp trong đạo lí của dân tộc: uống ước nhớ nguồn và gợi lối sống ân tình, trân trọng, biết ơn quá khứ.
3/ Kết luận:
Qua 8 câu thơ, Nguyễn Du đã khắc họa thành công một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Phải chăng đây là môt dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả. Ông đã mượn một ngày hội lớn của mùa xuân để miêu tả một cuộc gặp gỡ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đời Thúy Kiều. Từ đó ta có thể thấy tâm điểm của bức tranh lễ hội này là con người trong hiện tại, mùa xuân, tuổi trẻ.
Trong đoạn “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều), Nguyễn Du có viết:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xa như nước, áo quần như nêm.
a. Tìm 4 từ ghép Hán Việt trong đoạn thơ trên.
b. Câu thơ nào có 2 kết cấu chủ -vị?
c. Chỉ ra những từ láy trong đoạn thơ. Những từ láy đó giúp em hình dung một ngày lễ hội như thế nào?
Hướng dẫn giải:
a. Bốn từ ghép Hán Việt là: Thanh minh, tảo mộ, tài tử, giai nhân (hoặc đạp thanh, bộ hành)
b. Câu thơ có hai kết cấu chủ - vị là:
Lễ//là tảo mộ, hội// là đạp thanh.
CN VN CN VN
c. Đoạn thơ sử dung các từ láy là: nô nức, sắm sửa, dập dìu
Đây là những từ láy tượng hình, tượng thanh gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh đẹp về ngày hội trong buổi sáng thanh minh tháng ba.
- Không gian thoáng đãng, thời tiết ấm áp, dễ chịu.
- Gần xa trai – gái nô nước đi trẩy hội, dập dìu từng cặp, từng đôi, ngựa xe ngược xuôi, chen chúc, vui vẻ.
- Ngày lễ giao hòa độc đáo giữa cái quá khứ và hiện tại, cái đã qua và sắp tới.
- Những nam thanh nữ tú đi lễ tưởng niệm quá khứ nhưng có thể tìm thấy sợi tơ hồng trong ngày hội cho mai sau.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân thuộc phần mấy của tập Truyện Kiều?
Xác định bố cục 3 phần của đoạn trích Cảnh ngày xuân?
Hướng dẫn giải:
* Vị trí đoạn trích, thể thơ, ngôn ngữ, khái quát nội dung đoạn trích:
+ Đoạn trích nằm ở phần đầu “Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm “Truyện Kiều”, giới thiệu về gia cảnh nhà Vương viên ngoại.
+ Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp ngon ngữ chọn lọc, giàu hình ảnh, mang tính biểu cảm cao.
+ Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng trong tiết thanh minh và cảnh đi du xuân của chị em Thúy Kiều.
* Bố cục 3 phần:
- 4 câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp
- 8 câu tiếp: Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh vui tươi, sinh động
- 6 câu cuối: Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về
Phân tích khung cảnh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp được thể hiện qua bốn câu thơ đầu trong bài cảnh ngày xuân.
Hướng dẫn giải:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
- Với bút pháp miêu tả kết hợp với hình ảnh chọn lọc “con én đưa thoi”, tác giả đã gợi ra trước mắt người đọc giữa bầu trời cao, trong xanh, mênh mông, là hình ảnh những cánh chim én bay lượn vút qua vút lại như thoi đưa. Câu thơ vừa gợi liên tưởng tới cánh én chao liệng trên bầu trời xuân, vừa cho thấy thời gian mùa xuân chảy trôi nhanh quá, như thoi đưa.
- “Chim én” là loài chim đặc trưng của mùa xuân, thường xuất hiện khi mùa xuân về. Ở đây, tác giả còn sử dụng biện pháp ẩn dụ, những cánh én được so sánh ngầm với hình ảnh con thoi để diễn tả thời gian ngày xuân đang trôi nhanh, mới đó mà đã bước sang tháng ba. Trong bức tranh xuân đó, ngoài hình ảnh của chim én, tác giả còn chọn ánh thiều quang để miêu tả cảnh mùa xuân.
- “Thiều quang” là ánh sáng hồng, rạng rỡ, ấm áp của mùa xuân. => Như vậy, Nguyễn Du đã làm nổi bật được bức tranh mùa xuân tươi đẹp, có màu hồng của ánh nắng xuân, có sự ấm áp của khí xuân và có sự mênh mông của đất trời.
Ngoài ra, để tô điểm cho bức tranh xuân đó, tác giả còn miêu tả màu sắc tươi xanh của cỏ non và sắc trắng tinh khôi của bông hoa lê, tạo cho bức tranh sinh động:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Đây có lẽ là hai câu thơ tả cảnh hay nhấy trong “Truyện Kiều”. Để viết được hai câu thơ này, Nguyễn Du đã học cách viết từ những vần thơ cổ Trung Quốc:
“Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa”
Có nghĩa là “Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa”. Đại thi hào Nguyễn Du đã có một sự sáng tạo thật tài tình. Ông đã thay hình ảnh “cỏ thơm” bằng hình ảnh “cỏ non” bởi vì trong cái xanh non đã có hương thơm, dùng “cỏ non” sẽ thể hiện được sức sống đang mơn mởn của mùa xuân. Như vậy sẽ giúp cho câu thơ có tính khái quát cao hơn. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn dùng phép đảo ngữ, đưa tính từ “trắng” lên trước cụm từ “điểm một vài bông hoa” để đối xứng với tính từ “xanh” ở câu thơ trên tạo ra sự cân đối, hàn hòa. Câu thơ trở thành một bức họa đầy màu sắc tươi tắn. Trên nền xanh của cỏ biếc trải dài lan rộng như một tấm thảm tới tận chân trời được điểm xuyết bằng một vài bông hoa lê màu trắng gọi cho người đọc thấy được cảnh mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả và tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên của Nguyễn Du.
Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh vui tươi, sinh động được Nguyễn Du miêu tả như thế nào? Qua đoạn trích Cảnh ngày xuân, em hãy làm sáng tỏ cảnh đẹp ấy?
Hướng dẫn giải:
- Tác giả giới thiệu về lễ hội trong tiết thanh minh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”
Câu thơ trên giới thiệu cụ thể về ngày thanh minh diễn ra vào tháng ba. Lúc này, bầu trời trở nên trong sáng hơn, cảnh vật tràn đầy sức sống. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu “lễ là… hội là” có tính chất liệt kê, khẳng định cảnh lễ hội dân gian đã diễn ra từ bao đời nay, gợi lên trong tâm trí người đọc về tiết “thanh minh” là một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Ngày thanh minh diễn ra hai phần, phần lễ và phần hội. Trong phần lễ, người ta thường quét dọn, sửa sang lại phần mộ và thắp hương cho người đã khuất để cầu mong cho vong linh người thân được siêu thoát. Còn phần hội là du xuân ở chốn đồng quê thanh bình, được giẫm lên cỏ xanh.
- Tác giả còn cho người đọc thấy được không khí đông vui, từng bừng, náo nhiệt của ngày lễ thanh minh:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
Với cách dùng từ ghép liên tiếp “gần xa”, yến anh”, “chị em”, giúp chúng ta hình dung ra trên khắp các nẻo đường “gần xa”, những dòng người tấp nập đang trảy hội trong niềm vui nô nức, hồ hởi tiến về lễ hội, vai sánh vai, chân chân nối chân nhịp bước:
“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Tác giả sử dụng biện pháp so sánh “như nước”, “như nêm” để gợi ra một khung cảnh lễ hội tấp nập ngựa xe, từng đoàn người với trang phục đẹp đẽ, tươi sáng sắc màu, họ là những “tài tử giai nhân”, nam thanh nữ tú với tâm trạng hồ hởi, vui mừng đang trảy hội, và trong dòng người ấy, có cả ba chị em Thúy Kiều cũng đang du xuân tảo mộ. Ở đây, Nguyễn Du đã làm sống lại không khí mùa xuân trong tiết thanh minh, đó là nét đẹp của nền văn hóa dân tộc lâu đời và cũng thể hiện sự gắn bó của tác giả với truyền thống.
“Ngổn ngang gò đóng kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Bằng việc sử dụng từ láy “ngổn ngang” mang giá trị tạo hình lớn được đảo lên đầu câu thơ, gợi ra trước mắt người đọc những ngôi mộ nằm liền kề liên tiếp không theo trật tự hàng lối. Trong ngày thanh minh, những người còn sống đi tảo mộ, thắp hương cho những người đã khuất. Tác giả muốn thể hiện tình cảm của người đã khuất với người đã chết, cõi âm và cõi dương, hiện tại và quá khứ cùng đồng hiện trong ngày thanh minh. Câu thơ còn ghi lại cảnh người sống rắc những thoi vàng vó, đốt giấy tiền để gửi cho người đã khuất, thể hiện cái tâm, cái tình của con người. Các tài tử giai nhân và ba chị em Kiều trong lễ tảo mộ, họ không chỉ cầu nguyện cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, ước vọng về tương lai tươi sáng khi mùa xuân về.
Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về được Nguyễn Du miêu tả như thế nào qua đoạn trích Cảnh ngày xuân?
Hướng dẫn giải:
- Khép lại đoạn trích, tác giả miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về”
Các từ láy “tà tà”, “thơ thẩn” đã tái hiện được khung cảnh hoàng hôn đang buông xuống, mặt trời từ từ ngả bóng về phía tây. Ngày hội đông vui đã kết thúc, chị em Thúy Kiều dắt tay nhau trở về.
- Khung cảnh lúc này rất yên tĩnh, thanh bình:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
- Tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ láy “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” có sắc thái giảm nhẹ, góp phần biểu đạt không gian êm đềm, vắng lặng. Hình ảnh cảnh vật trong buổi chiều tà ấy thật nhỏ bé, khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê” với làn nước uốn quanh chảy nhẹ nhàng. Trên dòng suối đó, có nhịp cầu nhỏ bắc ngang ở cuối ghềnh. Bức tranh chiều tà dường như nhuốm màu tâm trạng. Người đọc nhận thấy nhịp thơ chậm rãi, nhịp sống lắng đọng. Chị em Kiều trở về trong tâm trạng buồn, thơ thẩn. Lúc này, ba chị em mới có dịp ngắm nhìn toàn bộ cảnh vật để bộc lộ tâm trạng bang khuâng, nuối tiếc khi hội đã tàn.
- Ngay sau khung cảnh lễ hội tiết thanh minh là cảnh Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên, sau đó gặp chàng thư sinh Kim Trọng. Đoạn thơ tả cảnh mà chứa đựng một linh cảm về điều sắp xảy ra và đó cũng chính là biện pháp nghệ thuật cùng tài kể chuyện của Nguyễn Du.