Đề bài : Phân tích bài ca dao "Công cha như núi ngất trời" ?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Bài ca dao là một thông điệp mà những người mẹ muốn nhắn nhủ với đứa con thân yêu qua lời ru, tiếng hát ngọt ngào, sâu lắng. Trong hai cầu đầu của bài ca dao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.”
Bài ca dao đã cụ thể hoá công lao của cha mẹ bằng việc so sánh với núi, với biển. Đó là những hình ảnh to lớn, mênh mông tượng trưng cho sự vĩnh hằng: “Công cha” được ví với chiều cao không cùng của "núi ngất trời", “nghĩa mẹ” được tả với chiều rộng vô bờ bến của "nước ngoài biển Đông", chiều nào cũng tận, như công lao của cha mẹ không gì đo đếm được. Hai câu thơ trên ngụ ý nhắc nhở công lao trời biển của mẹ cha đối với con cái. Còn trong hai câu cuối:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Hai câu trên là lời khuyên cho những người con phải ý thức đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, nghĩa là phải kính cha yêu mẹ và sống sao cho xứng đáng với công ơn trời bể của cha mẹ, của chín chữ cù lao. Hình ảnh “núi”, “biển” được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ: núi - ngất trời, cao; biển - rộng mênh mông, khiến ta cảm nhận thấy công lao cha mẹ to lớn dường nào. Hơn nữa lời nhắc nhở răn dạy được thể hiện qua hình thức bài hát dân gian. Với âm điệu tâm tình, thành kính, sâu lắng, lời răn dạy đó dễ đi vào tâm hồn của người đọc. Đối với tuổi thơ mỗi người Việt Nam, ca dao về tình cảm gia đình là dòng sữa ngọt ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn ta. Nhờ lời ru của mẹ trong bài ca dao trên, chúng ta đã lớn dần và trưởng thành, đã hiểu về công lao dưỡng dục to lớn của cha mẹ và bổn phận, trách nhiệm của người làm con. . .
Tham khảo:
- So sánh: công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ đối với con cái cao như “núi ngất trời”, rộng như “nước biển Đông”.
- Điệp từ: Hai từ “núi” và “biển” được nhắc lại hai lần bổ sung thêm nét điệp trùng, nối tiếp của núi, của biển khiến cho chiều cao của núi càng thêm cao, chiều rộng của biển càng thêm rộng…
a) chủ đề gia đình
b) công lao sinh thành như trời bể của cha mẹ và nhắc nhớ con cái phải biết hiếu thảo, biết ơn cha mẹ.
Câu 8: Đọc bài ca dao sau đây:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Bài ca dao trên là lời của ai nói với ai?.
A. Lời của cha mẹ nói với con cái.
B. Lời của ông bà nói với con cháu.
C. Lời của mẹ nói với con gái.
D. Lời của anh em khuyên nhủ lẫn nhau.
Câu 9: Đọc câu ca dao sau đây:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Hình ảnh con tằm trong câu ca dao trên nói đến cuộc đời, thân phận của những ai trong xã hội ngày xưa?
A. Những cuộc đời nô lệ, suốt đời bị bóc lột sức lao động.
B. Những thân phận nhỏ nhoi vất vả, khổ cực suốt đời mà vẫn nghèo khổ.
C. Những cuộc đời lận đận, phiêu bạt tha phương để kiếm sống.
D. Thân phận thấp cổ bé miệng với nổi khổ, nổi đau oan trái suốt đời.
Câu 10: Câu thơ nào trong bài “Bánh trôi nước” miêu tả vẻ đẹp về hình thể của người phụ nữ?
A. Câu 1
B. Câu 2
C. Câu 3
D. Câu 4
Câu 11: Đọc những câu ca dao sau đây:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Xác định ý nghĩa của điệp ngữ “Thương thay” trong những câu ca dao trên.
A. Phản ánh chân thật nỗi khổ của người nông dân ngày xưa.
B. Nhấn mạnh nỗi khổ của người nông dân ngày xưa.
C. Lên án nỗi khổ của người nông dân ngày xưa.
D. Đồng cảm sâu sắc với thân phận người nông dân ngày xưa.
Câu 12 : Trong văn bản “M ẹ tôi” của Et -môn-đô -đơ A -mi-xi . Em hãy cho biết bố của En - ri -cô là người như thế nào?
A. Rất thương yêu và nuông chiều con
B. Luôn nghiêm khắc và không tha thứ lỗi lầm cho con
C. Yêu thương, nghiêm khắc và tế nhị trong việc giáo dục con.
D. Luôn thay thế mẹ giải quyết mọi vấn đề trong gia đình.
Câu 13 : Câu nào nêu đúng nội dung chính bài “Phò giá về kinh”.
A. Thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc .
B. Lời động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu chống kẻ thù .
C. Lời ca ngợi tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược .
D. Là khúc ca khải hoàn mừng chiến thắng.
Câu 14:Tâm trạng của tác giả trong bài “Qua Đèo Ngang”là tâm trạng như thế nào?
A. Yêu say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.
B. Đau xót, ngậm ngùi trước sự đổi thay của quê hương.
C. Buồn thương da diết khi phải sống trong cảnh cô đơn.
D. Cô đơn trước thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất nước.
II. Tiếng Việt:
Câu 15 :Tìm từ trái nghĩa phù hợp để điền vào câu sau đây :
“ Xét mình công ít tội …..”
A. Đầy
B. Nhiều .
C. Giàu
D. Hai
Câu 16:Trong các dòng sau đây, dòng nào nêu đúng khái niệm thành ngữ?
A.Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
B.Thành ngữ là loại cụm từ có vần, có điệu biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
C. Thành ngữ là một tổ hợp từ có danh từ hoặc tính từ làm trung tâm.
D. Thành ngữ là một kết cấu chủ vị, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Câu 17 : Xác định từ láy trong những từ sau đây :
A. Đằng đông
B. Sáng sớm
C. Thơm tho
D. Đây đó.
Câu 18 : Xác định từ Hán Việt trong những từ sau đây :
A. Nhân loại .
B. Dịu dàng .
C. Yêu mến
D. Buồn phiền
CÂU 19 :Đọc hai câu thơ sau đây :
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này”
Hãy xác định từ đồng nghĩa với từ trông ở câu thơ thứ hai .
A. Mong
B. Nhìn
C. Đợi
D. Chờ
Câu 20: Câu nào nêu đúng khái niệm từ đồng nghĩa?
A.Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
B.Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau.
C.Từ đồng nghĩa là những từ phát âm giống nhau nhưng có nghĩa khác xa nhau.
D. Từ đồng nghĩa là những từ giống nhau cả về âm thanh và ý nghĩa.
Câu 21:Trong câu:“Nhà bạn có bao nhiêu người? ” Đại từ“ bao nhiêu”dùng để:
A. Chỉ về người
B. Chỉ về lượng
C. Hỏi về người
D. Hỏi về hoạt động tính chất.
Câu 22 :Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ “Thi nhân”
A. Nhà thơ
B. Nhà báo
C. Nhà văn
D. Nghệ sĩ.
Câu 23:Trong những dòng sau đây, dòng nào là thành ngữ có dùng phép so sánh?
A. Một nắng hay sương
B. Lá lành đùm lá rách
C. Đen như cột nhà cháy .
D. Ếch ngồi đáy giếng .
Câu 1:
a, Chủ đề tình cảm gia đình
b, Bài ca dao cho thấy công lao to lớn của cha mẹ với con cái và nhắc nhở con cái phải có hiếu với cha mẹ.
c,
Em tham khảo:
Bptt: so sánh, ẩn dụ
- So sánh (công cha - núi ngất trời; nghĩa mẹ - nước ở ngoài biển Đông.
→ Công lao và tình cảm của cha mẹ vô cùng lớn lao, vĩ đại. Việc so sánh với cái trừu tượng, to lớn nhằm thể hiện được tình thương yêu của cha mẹ là vô bờ bến, không thể đo đếm được.
- Ẩn dụ: (Núi cao biển rộng mênh mông)
→ Khẳng định lại công lao của cha mẹ là vô tận, thiêng liêng và ấm áp vô cùng.
Câu 2:
a, Nếu em được HSG thì mẹ sẽ mua cho em máy tính mới
B. Càng mưa trời càng tối sớm
C. Tuy trời lạnh nhưng mọi người vẫn đến cuộc họp đúng giờ
D. Bởi chăm chỉ học tập nên Minh được mọi người yêu quý.
Đáp án
- Chép đúng 3 câu còn lại của bài ca dao.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
- Nêu được nét chính về nội dung và nghệ thuật thông qua một số ý sau:
+ Hai câu đầu: Khẳng định công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái
• So sánh công cha với núi, nghĩa mẹ với nước - vừa cụ thể vừa trừu tượng làm nổi bật công cha nghĩa mẹ dành cho con cái là vô cùng lớn lao không thể đo đếm được.
• Sử dụng phép đối: Công cha – Nghĩa mẹ; Núi ngất trời - nước biển Đông => Tạo cách nói truyến thống khi ca ngợi công lao cha mẹ trong ca dao.
+ Hai câu sau: Lời nhắn nhủ ân tình thiết tha về đạo làm con.
• “Cù lao chín chữ” là thành ngữ Hán Việt -> tượng trưng cho công lao cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng dạy bảo con cái vất vả, khó nhọc nhiều bề.
• Khuyên những người con biết ghi lòng tạc dạ công ơn to lớn của cha mẹ
Phân tích bài ca dao:
-Công cha như núi (so sánh)
-Nghĩa mẹ như nước (so sánh)
=> Công lao sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ là vô cùng to lớn
-Núi cao, biển rộng -> ẩn dụ
-Mênh mông -> từ láy
-Cù lao chín chữ -> thành ngữ
=> Nhắc nhở mọi người phải biết ơn và đền đáp công ơn cha mẹ
Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” hầu như em bé nào cũng đã “uống” qua lời ru ngọt ngào của mẹ, của bà ngay từ thuở còn nằm trong nôi. Còn có bài ca dao bốn câu sau đây hầu như ai cũng nhớ cũng thuộc:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn, ở đây công cha lại được ví với “núi ngất trời", núi hùng vĩ, núi cao chót vót ,cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa mẹ”’ nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển Đông. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa mẹ cha với tình yêu sâu nặng. Tiếng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ Thấm thía và rung động biết bao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông”
Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi !” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làm con phải biết "ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu trên là một ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông”. Câu cuối bài ca dao, nhà thơ dân gian sử dụng cụm từ Hán Việt “cù lao chín chữ” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, cho bú mớm nâng niu, chăm sóc dạy bảo… con cái lớn khôn nên người, trải qua nhiều bề vất vả, khó nhọc. Có cha mẹ mới có con cái. Cha lo làm ăn, vất vả khó nhọc để nuôi con. Từ bát cơm, tấm áo đến ngọn đèn, quyển sách của con là do “công cha” và “nghĩa mẹ”. Mẹ mang nặng đẻ đau, như tục ngữ đã ghi lại: “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”. Con thơ lớn lên bằng dòng sữa tiếng ru, tiếng hát, bằng sự vỗ về, âu yếm chở che của mẹ hiền. Mẹ theo dõi, mẹ vui sướng từng ngày, từng ngày: “Ba tháng con biết lẫy, bảy thảng con biết bò, chín tháng con lò dò biết đi”… Mẹ lo lắng, tóc mẹ bạc dần… khi con thơ ốm đau bệnh tật. Bát cháo, chén thuốc cho con chứa đựng biết bao tình thương của mẹ hiền. Và cái ngày con cắp sách đến trường vào học lớp Một, mẹ cha như trẻ lại, dào dạt sống trong niềm vui hạnh phúc và hi vọng. Đó là “cù lao chín chữ", đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết “ghi lòng”. Có hiếu thảo thì con cái mới biết “ghi lòng” công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng “con ơi " thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tâm hồn ta.
Cái hay của bài ca dao là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con.
Chúc bn hk tốt!