Hãy chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện ngắn "Sống chết mặc bay" của tác giả Phạm Duy Tốn?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Phạm Duy Tốn (1883-1924), nguyên quán Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội)
- Ông là một trong số những nhà văn mở đường cho truyện ngắn hiện đại Việt Nam
- Truyện ngắn của oogn thường viết về hiện thực xã hội đương thời
Tham Khảo
Câu 1 :
Phép tương phản trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Câu 2
Trong văn bản “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn, nhà văn đã sử dụng rất thành công nghệ thuật tương phản.
Hai mặt tương phản cơ bản trong tác phẩm được thế hiện rõ nét:
Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả;
Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ
Em tham khảo:
Ý 1
Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Ý 2:
Hai mặt tương phản của tác phẩm là
- Cảnh dân tình đang cố hết sức, mang cả tính mạng, gia tài ra để chống trọi với lũ, với mưa bão >< cảnh quan lại đang nhàn hạ, thản nhiên đánh tổ tôm, kẻ hầu người hạ
- Âm thanh, náo loạn, lo lắng của dân tình chống lũ >< không gian tĩnh mịch tại nơi nguy nga, vững trãi trong đình
2 mặt tương phản đó là: 1 bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Trong khi đó bên kia thì quan phụ mẫu ngồi nhàn ha, có kẻ bưng người hạ, quan phụ mẫu coi việc đánh bài là trên hết, ko quan tâm đến người dân...
=> Dụng ý: Tác giả trước hết là bày tỏ lòng cảm thương nhân dân trc cảnh nghìn sầu muôn thảm, đồng thời phê phán tên quan phụ mẫu lòng lang dạ thú
Chúc bạn học tốt!
tác giả Phạm duy tón
_quê: Hà Tây
_Là cây bút xuất sắc nhất viết về truyện ngắn những năm đầu thế kỉ XX
_Là nhà văn có tấm lòng nhân đạo xuất sắc
Phạm Duy Tốn (1881 – 25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở toà Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.
Tham khảo:
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn các tác phẩm tự sự trung đại. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện viên quan phủ làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia 3 đoạn. Đoạn 1: từ “Gần một giờ đêm.” đến "... Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ vỡ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn 2: từ “ấy, lũ con dân...” đến “... Điếu mày”: cảnh quan phủ mà nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn 3: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng - những kẻ chức sắc ở địa phương - say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động...
Bức tranh thứ nhất: Cảnh nhân dân chống bão lụt.
Về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, vào tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khỗ, hiểm nguy vô cùng! "Hàng trăm nghìn con người... kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy... người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc hộ đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm... không khéo thi vỡ mất... Tình cảnh trông thật là thảm... Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay!...". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tinh, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc sống, lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân... "sống chết mặc bay", ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến... lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm: "...đèn thắp sáng trưng... nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại...". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi...". Xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến; những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hầm đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu... Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc... Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi... chơi! Giữa lúc nhân dân đang trảm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: "Bẩm, dễ có khi đê vỡ". Tên quan quát: "Mặc kệ". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: "Đê vỡ rồi!... thời ông cách cổ chúng mày... bỏ tù chúng mày". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi lo âu của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc..." (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh vỡ đê) thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: "Ù! Thông tôm, chi chỉ nảy... Điếu mày!". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thảm sầu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng; sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc... Giận và thương, hai cung bực cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện, nhà văn viết: "Ấy trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện, vừa miêu tả, vừa biểu ý, vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, cảm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Vậy đấy, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thẳm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn...
Tham khảo:
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn các tác phẩm tự sự trung đại. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện viên quan phủ làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia 3 đoạn. Đoạn 1: từ “Gần một giờ đêm.” đến "... Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ vỡ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn 2: từ “ấy, lũ con dân...” đến “... Điếu mày”: cảnh quan phủ mà nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn 3: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng - những kẻ chức sắc ở địa phương - say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động...
Bức tranh thứ nhất: Cảnh nhân dân chống bão lụt.
Về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, vào tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khỗ, hiểm nguy vô cùng! "Hàng trăm nghìn con người... kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy... người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc hộ đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm... không khéo thi vỡ mất... Tình cảnh trông thật là thảm... Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay!...". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tinh, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc sống, lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta.
Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân... "sống chết mặc bay", ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến... lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm: "...đèn thắp sáng trưng... nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại...". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi...". Xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến; những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hầm đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu... Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc... Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi... chơi! Giữa lúc nhân dân đang trảm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: "Bẩm, dễ có khi đê vỡ". Tên quan quát: "Mặc kệ". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: "Đê vỡ rồi!... thời ông cách cổ chúng mày... bỏ tù chúng mày". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi lo âu của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc..." (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh vỡ đê) thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: "Ù! Thông tôm, chi chỉ nảy... Điếu mày!". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thảm sầu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng; sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc... Giận và thương, hai cung bực cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện, nhà văn viết: "Ấy trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện, vừa miêu tả, vừa biểu ý, vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, cảm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Vậy đấy, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thẳm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn...
Tham khảo
"Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn là bức tranh hiện thực sinh động thể hiện sự thờ ơ, vô trách nhiệm của bọn quan lại với phông nền là tiếng than khóc, nỗi sợ hãi, sự chống trả cùng kiệt của nhân dân trước nguy cơ vỡ đê - Thật là "lòng lang dạ sói". Tại sao tác gả lại nói vậy?
"Lòng lang dạ sói" là câu thành ngữ đựơc sử dụng theo lối ẩn dụ để nói về những kẻ độc ác, "lòng" , "dạ" hệt loài cầm thú "lang" , "sói". Người ta thường chỉ dùng câu nói này để nói về những kẻ trộm cắp, những kẻ vô giáo dục, ngoài thềm xã hội. Nhưng hay thay, đối tượng mà câu tục ngữ này hướng đến, với Phạm Duy Tốn lại là những vị "quan phụ mẫu"- những con người được học rọng, hiểu sâu, là cha mẹ của muôn thảo dân.
Thủ pháp đặc trưng được Phạm Duy Tốn sử dụng trong toàn văn bản là đối lập. Đối lập với mưa gío bão bùng bên ngoài là khung cảnh "nghiêm trang lắm" trong đình quan. Bên cạnh con đê đang gào thét khàn cổ vì không thể chống chịu nổi mưa gió bão bùng là đình quan " cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì".
Thử đếm xem đã có bao nhiêu lần có người vào báo quan về tình hình nguy cấp của đê; vị "quan phụ mẫu" ấy đã có phản ứng gì? Nghĩ mà thật cảm phục vị quan kia, đương trong cảnh mưa gió bão bùng, đương trong tiếng kêu thét thảm thương của muôn dân mà vẫn có thể thản nhiên ngồi chơi bài. Ừ thì chả, vì:"đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài cao thấp" mà.
Tham Khảo
"Lòng lang dạ sói" là câu thành ngữ đựơc sử dụng theo lối ẩn dụ để nói về những kẻ độc ác, "lòng" , "dạ" hệt loài cầm thú "lang" , "sói". Người ta thường chỉ dùng câu nói này để nói về những kẻ trộm cắp, những kẻ vô giáo dục, ngoài thềm xã hội. Nhưng hay thay, đối tượng mà câu tục ngữ này hướng đến, với Phạm Duy Tốn lại là những vị "quan phụ mẫu"- những con người được học rọng, hiểu sâu, là cha mẹ của muôn thảo dân.
Thủ pháp đặc trưng được Phạm Duy Tốn sử dụng trong toàn văn bản là đối lập. Đối lập với mưa gío bão bùng bên ngoài là khung cảnh "nghiêm trang lắm" trong đình quan. Bên cạnh con đê đang gào thét khàn cổ vì không thể chống chịu nổi mưa gió bão bùng là đình quan " cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì".
Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.