Tục ngữ có câu '' Thương người như thể thương thân '' đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Em hãy làm rõ vấn đề đó
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu tucj ngữ
Học thầy ko tày học bn
Ko thầy đố mày làm nên
- Khác:
+ Không thầy đố mày làm nên: Khẳng định tầm quan trọng, vai trò của người thầy trong giáo dục
+ Học thầy không tày học bạn: Mở rộng môi trường học, có thể học ở bất cứ đâu, học ngay từ bạn bè
- Lời khuyên răn trong hai câu tục ngữ này không mâu thuẫn, trái ngược nhau mà bổ sung lẫn nhau chặt chẽ, hợp lí khi đề cao việc mở rộng môi trường, phạm vi học hỏi.
- Ý nghĩa của câu tục ngữ số 11 và số 12 không loại trừ nhau.
- Em rút ra được bài học từ hai câu tục ngữ đó: cần phải học tập từ cả thầy và bạn.
- Câu tục ngữ số (15) trong bài học này có hình thức của một thể thơ quen thuộc, được dùng rất nhiều trong ca dao của người Việt.
- Hai câu tục ngữ có hình thức tương tự:
(1) Đói thì ăn ráy ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng
(2) Làm trai lấy được vợ hiền
Như cầm đồng tiền mua được miếng ngon
- Những câu tục ngữ thể hiện ý nghĩa một cách trực tiếp: (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (11), (12), (13).
- Những câu tục ngữ thể hiện ý nghĩa qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ: (9), (10), (14), (15).
Thầy bói nói dưạ
Ăn ốc nói mò
Thấy cây mà ko thấy rừng
Chúc bn hok tốt !
A[sửa]
- Ác như hùm
- Ác giả ác báo
- An bần lạc đạo
- An cư lạc nghiệp
- An phận thủ thường
- An thân thủ phận
- Án binh bất động
- Anh em cột chèo
- Anh hùng không có đất dụng võ
- Anh hùng mạt lộ
- Anh hùng nhất khãng
- Anh hùng rơm
- Anh hùng tạo thời thế
- Ao có bờ sông có núi
- Ao liền ruộng cả
- Ao sâu nước rộng
- Ao tù nước đọng
- Ào ào như thác đổ
- Áo ấm cơm no
- Áo đơn đợi hè
- Áo gấm đi đêm
- Áo đơn lồng áo kép
- Áo gấm đi về
Ă[sửa]
- Ăn báo cô
- Ăn Kinh mặc Bắc (Bắc= miền bắc, Kinh= cố đô Huế)
- Ăn bằng nói trắc
- Ăn bơ làm biếng
- Ăn bờ ở bụi
- Ăn bớt đọi, nói bớt lời
- Ăn bữa hôm lo bữa mai
- Ăn bớt ăn xén
- Ăn cháo đá chén
- Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời
- Ăn đơm nói đặt
- Ăn cơm Tàu, ở Nhà Tây, lấy vợ Nhật
- Ăn cơm trước kẻng
- Ăn thùng uống vại
- Ăn ốc nói liền
- Ăn như rồng leo, nói như mèo mửa, làm như rồng cuốn
- Ăn cây nào, rào cây đấy
- Ăn cây táo, rào cây sung
- Ăn chắc mặc bền
- Ăn cay nuốt đắng
- Ăn cắp uống rượu
- Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt
- Ăn cần ở kiệm
- Ăn cây nào rào cây nấy
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
- Ăn quả vả, trả quả sung
- Ăn cây táo rào cây sung
- Ăn cháo đá bát , ăn cức đá bát
- Ăn cháo lá đa
- Ăn chay nằm mộng
- Ăn chay niệm Phật
- Ăn chắc mặc bền
- Ăn chực nằm chờ
- Ăn chưa no lo chưa tới
- Ăn chung ở lộn
- Ăn chung máng, ở chung chuồng
- Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau
- Ăn cơm chúa, múa tối ngày
- Ăn cơm có canh, tu hành có bạn
- Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan
- Ăn cơm mới nói chuyện cũ
- Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
- Ăn đến nơi, làm đến chốn
- Ăn cơm thiên hạ
- Ăn vóc học hay
- Ăn đất nằm sương
- Ăn đói mặc rách
- Ăn đói mặc rét
- Ăn đong ở đợ
- Ăn đời ở kiếp
- Ăn gan uống máu
- Ăn giả làm thật
- Ăn gian nói dối
- Ăn giập miếng trầu
- Ăn gió nằm mưa
- Ăn gửi nằm chờ
- Ăn hiền ở lành
- Ăn hương ăn hoa
- Ăn hơn nói kém
- Ăn khỏe như thần trùng
- Ăn không ăn hỏng
- Ăn không nên đọi, nói không nên lời
- Ăn không ngồi rồi
- Ăn không ngon, ngủ không yên
- Ăn không nói có
- Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ
- Ăn lông ở lỗ
- Ăn mày cầm tinh bị gậy
- Ăn mày đòi xôi gấc
- Ăn mày quen ngõ
- Ăn mắm mút dòi
- Ăn mặn khát nước
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
C[sửa]
- Con cái mất dạy(Alice)
- Cha nào con nấy
- Chân lấm tay bùn
- Chân cứng đá mềm
- Châu chấu đá xe
- Cò bay thẳng cánh
- Có mới nới cũ
- Có qua có lại
- Có tật giật mình
- Con nhà lính, tính nhà quan
- Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh
- Còn nước còn tát
- Con ông cháu cha
- Con dại cái mang
- Con sâu làm rầu nồi canh
- Cùng hội cùng thuyền
- Chó treo mèo đậy
- Cháy nhà ra mặt chuột
- Chạy sấp đập ngửa
- Cá chậu chim lồng
- Cành vàng lá ngọc
- Cáo mượn oai hùm
- Có thực mới vực được đạo
- Chạy đôn chạy đáo
- Cõng rắn cắn gà nhà
- Chim kêu vượn hú
- Coi trời bằng vung
- Con dại cái mang
- Chín bỏ làm mười
- Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng
- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
- Chuột sa chĩnh gạo
- Chuột sa hũ nếp
- Chở củi về rừng
- Chó cắn ma
- Chó ăn đá, gà ăn sỏi
- Chó sủa là chó không cắn
- Con giun xéo lắm cũng quằn
- Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ
- Cần cù bù thông minh
- Chưa đổ ông nghè, đã đe hàng tổng
- Cây ngay không sợ chết đứng
- Chết cha còn chú, xẩy mẹ bú dì
- Chọc gậy bánh xe
- Chó chê mèo lắm lông
- Chó cùng dứt dau
- Cố đấm ăn xôi
- Chia ngọt sẻ bùi
- Chết vinh còn hơn sống nhục
- Chết đứng còn hơn sống quỳ
- Chậm như rùa
- Chim sa cá lặn
- Có lê quên lựu, Có trăng quên đèn
- Chung lưng đấu cật
- Cầu được ước thấy
- Có công mài sắt, có ngày nên kim
- Cua gặp ếch chào
- Có bé xé ra nhiều
- Cày sâu cuốc bẫm
- Cẩn tắc vô áy náy
- Cẩn tắc vô ưu
- Cải chửa ra cây
- Cờ bí dí tốt
- Củi mục khó cháy
- Cùm chân xích cánh
- Chưa cứng lông mao đã rào vẫy đít
- Cay như ớt, chát như sung
- Chửi cha không bằng pha tiếng
- Cả vú lấp miệng em
- Cái khó ló cái khôn
- Cạn tàu ráo máng
- Cầm cân nảy mực
- Chân nam đá chân chiêu
- Chén tạc chén thù
- Chén chú chén anh
- Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào
- Con rồng cháu tiên
- Của ít lòng nhiều
- Chó mà chê phân, mèo mà chê đất
D[sửa]
- Da mồi tóc sương
- Dĩ hòa vi quý
- Dở dở ương ương
- Dở khóc dở cười
- Dao siêng mài thì sắc
Đ[sửa]
- Đầu đường xó chợ
- Đầu trộm đuôi cướp
- Đất rộng trời cao
- Dấu đầu hở đuôi
- Đi đêm có ngày gặp ma
- Đi đến nơi, về đến chốn
- Đi guốc trong bụng
- Điếc không sợ sấm
- Điếc không sợ súng
- Đội nón ra về
- Đổ dầu vào lửa
- Được voi đòi tiên
- Đêm dài lắm mộng
- Đặng trăng quên trang
- Đầu xuôi đuôi lọt
- Đầu tắt mặt tối
- Đánh rắm siêu khắm
- Đầu voi đuôi chuột
- Đã ngọng còn hay lu, đã ngu còn hay chơi chữ
- Đàn gẩy tai trâu
- Đầu bạc răng long
- Đi đêm lắm có ngày gặp ma
- Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
- Đỉa đòi đeo chân hạc
- Đen như cột nhà cháy
- Đồng không mông quạnh
- Đa nghi như Tào Tháo
- Đánh trống bỏ dùi
- Đồng không mông quạnh
- Đục nước béo cò
- Được ăn, được nói, được gói mang về.
- Đẽo cày giữa đường
- Đất có lành có lở
- Đất lành chim đậu
- Đem con bỏ chợ
Ê[sửa]
- Ếch ngồi đáy giếng
- Ếch chết tại miệng
- Ế xưng ế xỉa
- Ế sặc bọt
- Ếch vồ hoa mướp
G[sửa]
- Gần lửa rát mặt
- Gà đẻ trứng vàng
- Giấy rách phải giữ lấy lề
- Gậy ông đập lưng ông
- Gần nhà xa ngõ
- Giao trứng cho ác
- Giấu đầu hở đuôi
- Gần đất xa trời
- Gắp lửa bỏ tay người
- Giả nhân giả nghĩa
- Giang sơn gấm vóc.
- Giậu đổ bìm leo
- Giận cá chém thớt
- Gieo nhân nào gặt quả nấy.
- Gieo gió gặt bão
- Giơ tay mặt đặt tay trái
- Gặp nhau trước lạ sau quen
- Giữ cho trong ấm ngoài êm thuận hòa
- Giàu nứt đố đổ vách
- Gương vỡ lại lành
- Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
H[sửa]
- Học ***** cắn mình trong gương (Alice cún)
- Hẹp nhà rộng bụng
- Há miệng chờ sung
- Họa vô đơn chí
- Hổ phụ sinh hổ tử
- Hổ phụ vô khuyển tử
- Học một biết mười
- Hoa hòe hoa sói
- Hóa mù ra mưa
- Hữu danh vô thực
- Há miệng mắc quai
- Hồng nhan bạc phận
- Hổ đầu xà vĩ
- Hàng tôm hàng cá
- Hồn xiêu phách lạc
- Học chẳng may thi hay thì đỗ
- Học ăn, học nói, học gói, học mở
- Học chọc bát cơm,học đơm bát cháo
- Học hay cày biết
- Học tài thi phận
- Học như gà đá vách
- Học thầy không tày học bạn
- Học trước quên sau
- Hẹp nhà rộng bụng
- Hót như họa mi
I[sửa]
- Ích nước lợi nhà
- Ích quốc lợi dân
- Ích kỷ hại nhân
- Im hơi lặng tiếng
- Im như thóc
- Im lặng là vàng
- Ít xích ra nhiều
K[sửa]
- Không khảo mà xưng
- Không thầy đố mày làm nên
- Không mợ thì chợ vẫn đông
- Khôn nhà dại chợ
- Khôn ba năm dại một giờ
- Khẩu phật tâm xà
- Khỏe như voi
- Khỉ ho cò gáy
- Kiến bò miệng bát
- Không khảo mà khai
- Không thầy đó mày làm nên
- Kẻ tám lạng, người nửa cân.
- Kẻ cắp gặp bà già
- Kén cá chọn canh
- Kết tóc se tơ
- Kết tóc se duyên
- Kín cổng cao tường
- Kín như bưng
L[sửa]
- Lá rụng về cội
- Lạt mềm buộc chặt
- Lời ăn tiếng nói
- Làm trai cho đáng thân trai
- Lòng lang dạ sói
- Lòng vả cũng giống lòng sung
- Lên voi xuống chó
- Lên bờ xuống ruộng
- Lực bất tòng tâm
- Lên thác xuống ghềnh
- Liễu yếu đào tơ
- Lá lành đùm lá rách
- Lá xanh chồi biếc
- Lo bò trắng răng
- Lòng vả cũng như lòng sung
- Lỡ thầy, lỡ thợ
- Lấy oán trả ơn
- Lá lành đùm lá rách
- Lên rừng xuống bể
M[sửa]
- Muốn sang thì bắc cầu Kiều;
- Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy;
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
- Múa rìu qua mắt thợ
- Một nắng hai sương
- Mèo khen mèo dài đuôi
- Mất bò mới lo làm chuồng
- Mỡ để miệng mèo
- Múa rìu qua mắt thợ
- Mưa dầm thấm lâu
- Mưa to gió lớn
- Mạt cưa mướp đắng
- Máu ghen Hoạn Thư
- Mẹ tròn con vuông
- Miệng hùm gan sứa
- Môn đăng hộ đối
- Môi hở răng lạnh
- Một kho vàng không bằng một nang chữ
- Máu chảy ruột mềm
- Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
- Mất cả chì lẫn chài
- Mũ ni che tai
- Mượn gió bẻ măng
- Mai danh ẩn tích
- Mắt nhắm mắt mở
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
- Một phút suy tư bằng một năm không ngủ
N[sửa]
- Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã
- Nước sông công lính
- Năm thì mười họa
- Nói một đằng làm một nẻo
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
- Ngả theo chiều gió
- Nhàn cư vi bất thiện
- Non sông gấm vóc
- Nước đục thả câu
- Nhanh như cắt
- Nhân vô thập toàn
- Nhất cử lưỡng tiện
- Nước chảy đá mòn
- Nước mắt chảy xuôi
- Nước mắt cá sấu
- Nước mất nhà tan
- Nước đổ đầu vịt
- Nước đổ lá khoai
- Nước đổ lá môn
- Nước xa không cứu được lửa gần
- Nuôi ong tay áo
- Nuôi cáo trong nhà
- No cơm ấm áo
- No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi
- Ngày lành tháng tốt
- Nem công chả phượng
- Ném đá giấu tay
- Ngày rộng tháng dài
- Nhà cao cửa rộng
- Nhà tranh vách đất
- Nước lọ cơm niêu
- Nói dai như đỉa
- Nói trước quên sau
- Nói phải giữ lấy lời
- Nhanh như chớp
- Nhanh như cắt
- Nhát như cày sấy
- Nhát như cáy
- Nhát như thỏ đế
- Ngậm bồ hòn làm ngọt
- Nghèo rớt mồng tơi
- Nghiêng nước nghiêng thành
- Ngồi lê đôi mách
- Nát như tương bần
- Nói có sách, mách có chứng
- Nói nhăng nói cuội
- Nói toạc móng heo
- Nhân chi sơ tính bản thiện
- Nhân chi sơ tính bản ác
- Nhân định thắng thiên duyên
- Người có dở có hay
- Nói thánh nói tướng
- Người tính không bằng trời tính
- Nồi nào vung nấy
- Nước sông không phạm nước giếng
- Ngồi mát ăn bát vàng
- Nước chảy bèo trôi
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư
- Người siêng năng thì mau tiến bộ, cả nhà siêng năng thì chắc ấm no, cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh, cả nước siêng năng thì nước mạnh
Ơ[sửa]
- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
- Ở hiền gặp lành
- Ở ác gặp dữ
- Ơn trả nghĩa đền
- Ơn sâu nghĩa nặng
P[sửa]
- Phép vua thua lệ làng
- Phòng bệnh hơn chữa bệnh
- Phun châu nhả ngọc
- Phong gấm lụa là
- Phi nội tắc ngoại
- Phú quý sinh lễ nghĩa
R[sửa]
- Ruột để ngoài da
- Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng
- Rán sành ra mỡ
- Rồng mây gặp hội
- Rừng vàng biển bạc
- Ra ngô ra khoai
- Rối như canh hẹ
- Rồng đến nhà tôm
- Rắn đổ nọc cho lươn
- Rước voi về giày mả tổ
- Ruột nóng như cào
- Rồng bay phượng múa
S[sửa]
- Sinh cơ lập nghiệp
- Sông có khúc người có lúc
- Sơn hào hải vị
- Sang sông thì phải lụy đò
- Sống khôn thác thiêng
- Sinh nghề tử nghiệp
- Sinh ký tử quy
- Sinh sôi nảy nở
- Say hoa đắm nguyệt
- Say như điếu đổ
- Sơn cùng thủy tận
- Sông cạn đá mòn
- Sức dài vai rộng
- Sóng to gió lớn
- Siêng học tập thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến, siêng làm thì nhất định thành công
T[sửa]
- Tan đàn xẻ nghé
- Tan nhà nát cửa
- Trống đánh xuôi kèn thổi ngược
- Trẻ người non dạ
- Tiền mất tật mang
- Thắt lưng buộc bụng
- Tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ
- Thua keo này, bày keo khác
- Trưởng giả học làm sang
- Thầy bói xem voi
- Tứ cố vô thân
- Tứ đại đồng đường
- Tứ hải giai huynh đệ
- Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
- Tiên học lễ, hậu học văn
- Tay bắt mặt mừng
- Tay trắng tay đen
- Thua me gỡ bài cào
- Tham thì thâm
- Tham phú phụ bần
- Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi
- Tắt lửa tối dèn
- Trọng thầy mới được làm thầy
- Trăm công ngàn việc
- Trời yên biển lặng
- Trông gà hóa cuốc
- Trông mặt mà bắt hình dong (dung), con lợn có béo thì lòng mới ngon
- Tre già măng mọc
- Trẻ cậy cha, già cậy con
- Thừa gió bẻ măng
- Thiên la địa võng
- Thấy người sang bắt quàng làm họ
- Thẳng như ruột ngựa
- Thần hồn nát thần tính
- Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho
- Thả hổ về rừng
- Thả con săn sắt, bắt con cá rô.
- Tha phương cầu thực
- Tham bát bỏ mâm
- Thả mồi bắt bóng
- Tức nước vỡ bờ
- Tự lực cánh sinh
- Tự thân vận động
- Tô son điểm phấn
- Tả phù hữu bật
- Tả xung hữu đột
- Tai bay vạ gió
- Thương con quý cháu
- Tận nhân lực tri thiên mệnh
- Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi
- Tích tiểu thành đại
- Trong ấm ngoài êm
- Thêm bạn bớt thù
- Thậm thà thậm thụt
- Thiên thời địa lợi nhân hòa
- Thùng rỗng kêu to
- Thuốc đắng đả tật, nói thật mất lòng
- Tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ
- Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa
U[sửa]
- Uống nước nhớ nguồn
- Uổng công phí sức
- Úp úp mở mở
- Ước gì được nấy, ước sao được vậy
V[sửa]
- Vạn sự khởi đầu nan
- Vô thưởng vô phạt
- Vắng chủ nhà, gà vọc niêu tôm
- Vắt cổ chày ra nước
- Việc nhà thì nhác, việc chú bác siêng năng
- Vì thần phải nể cây đa
- Vắt chanh bỏ vỏ
- Vào sinh ra tử
- Vụng chèo khéo chống
- Vỏ quýt dày móng tay nhọn
- Vạn sự như ý
- Vạn sự khởi đầu nan
- Vườn không nhà trống
- Vinh quy bái tổ
- Vườn rộng rào thưa
- Vẽ rắn thêm chân
- Vẽ đường cho hươu chạy
- Vẽ vời
- Vung tay quá trán
X[sửa]
- Xuất đầu lộ diện
- Xuất khẩu thành thơ
- Xem mặt mà bắt hình dong
- Xôi hỏng bỏng không
- Xa mặt cách lòng
- Xa thơm gần thối
- Xa luân chiến
Y[sửa]
- Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
- Yêu nahu củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo.
- Yếm thắm trôn kim
- Yêu nhau lắm cắn nhau đau
- Yếu như sên
a. Từ tượng thanh: “uôm uôm” => Mô phỏng tiếng kêu của ếch
b. Nghĩa tường minh: Mô phỏng tiếng kêu của ếch vào tuổi tối và mực nước của ao chuôm
Nghĩa hàm ẩn: ám chỉ về thời tiết, khi mà lúc ếch kêu uôm uôm thì ắt hẳn trời sẽ mưa và mưa lớn khiến cho ao chuôm để ngoài trời có thể đầy nước. Đồng thời răn dạy con cháu biết cách tích trữ nước để phục vụ việc sinh hoạt
Trả lời :
Câu tục ngữ có 8 chữ chia thành 2 vế đối nhau, chữ “hay” vần với chữ “cày”: “Có học mới hay // có cày mới biết”. Vế 1 nói về việc học chữ, học văn hóa: vế 2 nói về học trong lao động, học cày, học làm ruộng. Nghề nông là nghề chính rất lâu đời của nhân dân ta. Câu tục ngữ này còn nêu lên bài học: học đi đôi với hành, học văn hóa kết hợp với học trong lao động sản xuất.
~ Thiên mã ~
Câu tục ngữ này có 8 chữ chia thành 2 vế đối nhau, chữ “hay” vần với chữ “cày”: “Có học mới hay // có cày mới biết”. Vế 1 nói về việc học chữ, học văn hóa: vế 2 nói về học trong lao động, học cày, học làm ruộng. Nghề nông là nghề chính rất lâu đời của nhân dân ta. Câu tục ngữ này còn nêu lên bài học: học đi đôi với hành, học văn hóa kết hợp với học trong lao động sản xuất.
- Tính chất cân đối trong cấu trúc ngôn từ được thể hiện ở những câu tục ngữ trong bài:
+ Hai vế câu cân đối về số tiếng (Ví dụ: Nắng chóng trưa, mưa chóng tối; Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa; Đói cho sạch, rách cho thơm;,...)
+ Hai dòng có số tiếng trong cân đối với nhau (Ví dụ: Kiến cánh vỡ tổ bay ra/ Bão táp mưa sa gần tới; Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng Mười chưa cười đã tối;...)
+ Những câu tục ngữ tưởng như vế câu không đối xứng nhưng thực chất lại đối xứng:
Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão: "gió heo may" và "chuồn chuồn bay" đều có 3 tiếng, cân đối với nhau; "thì bão" là sự việc sẽ xảy ra nếu có cả hai yếu tố gió heo may và chuồn chuồn bay.
Người sống hơn đống vàng: "người sống" và "đống vàng" là đối tượng so sánh, "hơn" là từ so sánh.
- Việc tạo nên sự cân đối trong cấu trúc của một câu tục ngữ có tác dụng làm cho câu tục ngữ có nhịp điệu nhịp nhàng, giúp cho câu tục ngữ trở nên dễ nhớ, dễ thuộc.
Bầm về bầm gọi: Con ơi!
Ra đây bầm bế đến chơi ngoài bà
Bố con đi nguyệt về hoa
Quên cửa quên nhà, chẳng nhớ đến con
Từ địa phương “Bầm”: Mẹ (phương ngữ một số vùng Bắc Trung Bộ).
Nhân nghĩa vốn là một truyền thống quý báu có từ ngàn đời này của dân tộc ta, nó gắn liền với công cuộc dựng và giữ nước của một quốc gia dân tộc. Giống như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo” của mình. Dân tộc Việt Nam : “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ lấy chí nhân để thay cường bạo”. Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, cũng đã có rất nhiều câu tục ngữ nói về truyền thống tốt đẹp này, tiêu biểu là câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”.
Câu tục ngữ nói lên một phẩm chất đáng quý của dân tộc ta, đó là lòng yêu thương con người. “Thương thân” là dành tình yêu thương, sự quan tâm, che chở cho chính bản thân mình. Còn “thương người” là dành sự yêu thương, đồng cảm cho người khác, “như thể” chỉ về một mối quan hệ ngang bằng, tương đương nhau. So sánh “thương người như thể thương thân” muốn nói rằng hãy dành tình yêu thương, lòng đồng cảm, sự giúp đỡ cho người khác cũng như là dành cho chính bản thân mình vậy. Khi mình gặp khó khăn, trắc trở mình đau khổ bao nhiêu, mình cảm thấy bất hạnh bao nhiêu thì khi người khác gặp phải tình cảnh đó cũng có cảm giác tương tự như mình vậy. Hãy giúp đỡ người khác vượt qua khó khăn thử thách mà đừng so đo, tính toán gì, hãy xem như sự giúp đỡ đó là dành cho chính bản thân mình.
Cũng đã có rất nhiều câu tục ngữ có nội dung nói về lòng yêu thương con người như:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Hay:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Hoặc một câu gần nghĩa nhất là: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” một con ngựa đau không ăn thì cả đàn cũng bỏ bữa, coi nỗi đau của người khác cũng như chính nỗi đau của mình.
Dân tộc ta với truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời đã có những hành động rất thiết thực thể hiện tinh thần “thương người như thể thương thân”. Xưa kia thì có phong trào “hũ gạo cứu đói” do Bác Hồ phát động, vì trước kia, trong khi đất nước vẫn còn chiến tranh thì cuộc sống của đa số người dân vẫn còn cực khổ nên các phong trào thể hiện truyền thống nhân nghĩa này còn hạn chế, nhưng bây giờ khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng, đang trong công cuộc đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cuộc sống của đa số mọi người đã khá giả hơn, nhưng không vì thế mà các giá trị truyền thống tốt đẹp bị mai một mà con phát huy mạnh mẽ hơn. Tuy đại đa số mọi người đã có cuộc sống ấm nó, hạnh phúc nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ người dân, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số có cuộc sống khó khăn, hay những người dân ở ven biển miền Trung thường xuyên phải chịu hậu quả nặng nề từ những trận lụt bão. Những ngươi này luôn cần sự chung tay giúp đỡ của tất cả mọi người trên mọi miền Tổ quốc những chương trình thiết thực như “Vì người nghèo”, “Tất cả vì khúc ruột miền Trung” đã thu hút được rất nhiều tấm lòng hảo tâm ủng hộ, khuyên góp của cải vật chất để giúp đỡ những cảnh ngộ éo le này. Tất cả đều xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông, chia sẻ và sẵn sàng giúp đỡ của mọi người dân Việt Nam.
Ta đã nghe câu thơ:
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Lại một ngày thêm để yêu thương”
Hay:
“Còn gì đẹp hơn đời như thế
Người với người sống để yêu nhau”
Vậy mà một số người vẫn giữ thái độ sống thờ ơ, vô cảm với mọi người xung quanh, tỏ thái đô “sống chết mặc bay” hay “đèn nhà ai nhà nấy rạng” với những người đang gặp khó khăn, đang mong mỏi sự giúp đỡ. Đây là một cách sống đáng bị xã hội phê phán và lên án.
Câu tục ngữ đã đúc kết những điều được coi là chân lí của cha ông ta, một truyền thống, đạo lí sâu sắc, hãy biết dành tình yêu thương, giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn hoạn nạn đây cũng như là yêu thương giúp đỡ chính bản thân mình. Nó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc cần được lớp thế hệ đi sau gìn giữ và phát huy.
#Có gì nhắn hỏi mình nhé bạn!
_ Tham khảo _
Tục ngữ Việt Nam là kho kinh nghiệm ngàn đời, đúc kết từ trí tuệ người xưa. Cũng có câu tục ngữ được thốt ra từ trái tim nồng nàn của tiền nhân. Đó là câu : Thương người như thể thương thân.
Lời khuyên này có ý nghĩa gì ? Chúng ta hãy thử tìm hiểu xem.
Câu tục ngữ như một lời nói hết sức bình dị hàng ngày. Nó là một câu so sánh với hai vế: a và b. Thương người như thể thương thân. Vậy muốn hiểu thương người phải hiểu thương thân là gì ? Thân tức là thân thể hay thân xác; là phần vật chất sấng của mỗi người, được cha mẹ ban cho mà có. Thương thân là từ hết sức hàm súc, nó diễn tả tâm trạng của người tự lập, cô đơn phải biết thương lấy mình, tự mình chăm sóc, giữ gìn và chia sẻ vui buồn với chính mình. cũngchính vì thế thương thân thể hiện một tình thương dồi dào nhất, một sự chăm sóc tích cực nhất, vì “vị kỉ” và “ích kĩ” là bản tính của con người. Nhất là khi con người ta cô đơn. Tóm lại, thương thân là tình thương đậm đà nhất, sự giữ gìn, chăm sóc tích cực và cảm thông sâu xa nhất của mỗi người với chính mình. Thương người như thể thương thân chứa đựng một lời khuyên : hãy thương yêu, chăm sóc thông cảm và chia sẻ vui buồn, hoạn nạn với người khác như chính mình vậy.
Sở dĩ ông bà ta có lời khuyên này vì nhiều người trong xã hội có thói ích kỉ, ích kỉ đến độ tàn nhẫn và ngu ngốc. Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi là những câu thành ngữ, tục ngữ miêu .tả loại người ấy. Do đó, câu tục ngữ thương người như thể thương thân như một hồi chuông đánh thức lương tri, lay động tâm hồn của con người.Thật vậy, trong xã hội không ai sống lẻ loi, đơn độc mà tập hợp thành đoàn thể, cộng đồng. Trong gia đình, ta có mối quan hệ anh em, những người cùng huyết thống, cùng có những kỷ niệm vui buồn bên nhau. Họ chẳng khác nào như chân với tay trong cùng một cơ thể: Do đó khi gặp khó khăn, hoạn nạn ta làm sao có thể quay lưng làm ngơ cho được, bởi máu chảy ruột mềm.
Anh em như thể chân tay.
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Rộng hơn tình anh em bè bạn, bà con hàng xóm, những người đã cùng chúng ta tối lửa tắt đèn có nhau, tuy không cùng máu mủ nhưng ho lai là người có tình có nghĩa sâu nặng với ta. Những lúc trái gió trở trời, những khi cùng đường bí lối, họ đến với ta bằng những tấm lòng chân thành để chia ngọt sẻ bùi. Tình nghĩa ấy thật sâu đậm nào Khác gì anh em một nhà. Vì vậy, khi họ không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn, lẽ nào ta ngoảnh mặt thờ ơ cho đành. Lúc này, thái độ nhường cơm sẻ áo, chị ngã em nâng là một việc làm mà ta phải thực hiện tốt. Ngay đến cộng đồng xã hội mà ta sống, những người dù ở miền ngược hay miền xuôi, dù ở nơi rừng núi hay đồng bằng cũng đều là anh em, bởi lẽ họ với ta cùng một dân tộc, có chung một mẹ Âu Cơ. Chính mối quan hệ gắn bó này tạo nên tình cảm tương thân tương ái giữa con người với con người trong xã hội. Tình cảm ấy đã bao đời nay trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Trải qua những năm tháng kháng chiến gian khổ, cả nước đều chung lòng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để đi đến thắng lợi vẻ vang. Cũng đã biết bao lần toàn dân ta đã hưởng ứng tích cực lời kệu gọi một miếng khi đói bằng một gói khi no những khi lũ lụt, hoả hoạn. Những lúc ấy, có người đã dũng cảm quên đó ý, quên lạnh, cứu sông bao nhiêu mạng người để lại gương sáng cho đời sau .
Câu tục ngữ thương người như thể thương thân là một bài học sâu sắc về đạo lí làm người. Hãy thương yêu người khác như yêu thương chính bản thân mình. Điều đó mãi mãi nhắc nhở ta về lòng nhân ái, về tình người mà ta cần thực hiện tốt. Để phát huy truyền thống tốt đẹp ấy của ông cha, em hứa sẽ luôn giúp đỡ những người hoạn nạn trong cuộc đời.
Trong một nhóm người cũng như trong một xã hội, lời nói thật là quan trọng vô cùng: lời nói làm cho được lòng người hay mất lòng người trong nháy mắt. Người khôn bao giờ cũng muôn được lòng người, người tu càng muốn được lòng người hơn nữa ! Nhân tâm thật là quý báu, nhân tâm không thể mua bằng tiền, đúng theo lời ca dao
Nhân tâm ai bán mà mua
Ai cho mà lấy, ai đưa mà mừng ?
Thế mà nhân tâm chỉ mua và mua bằng lời nói. Người khôn dùng lời nói dịu dàng mà mua nhân tâm. Người hiền dùng lời nói nhân hậu mà thu phục nhân tâm. Người tu dùng lời nói từ bi mà qui hợp nhân tâm. Lời nói quả thật có công dụng và hiệu lực thắng thế hơn tiền bạc