viết 1 đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận về tâm trạng của ông hai khi nghe tin xấu về làng
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
- Diễn biến tâm trạng từ lúc nghe tin (6đ):
+ Sự xung đột trong nội tâm nhân vật: rất yêu làng nhưng nghe tin làng theo giặc, ông hết sức bất ngờ “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
→ Tình yêu nước vượt lên trên tình yêu làng quê.
Mặc dù vậy, vì yêu làng nên ông càng day dứt, tủi hổ, không thể dứt bỏ tình cảm với làng được.
+ Bị đẩy vào tình huống bế tắc khi bị mụ chủ nhà đuổi đi. Mâu thuẫn nội tâm nhân vật và những giằng xé, bế tắc đòi hỏi cần được giải quyết.
+ Trút lòng tâm sự với đứa con nhỏ. Đoạn văn diễn tả cảm động nỗi lòng của ông Hai với cách mạng, với kháng chiến, đất nước, quê hương... Thực chất ở lời tâm sự đó là lời tự nhủ với mình, giãi bày nỗi lòng mình:
• Ông yêu làng tha thiết.
• Thủy chung với cách mang, với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ. tình cảm ấy bền chặt, thiêng liêng
+ Khi làng được minh oan, tin về làng ông được ông chủ tịch cải chính: ông vui mừng, hớn hở: “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn”.
- Nét nổi bật trong tính cách nhân vật chính là tình yêu làng, yêu quê hương đất nước.
Tham Khảo
Bài khá là dài nhé nên hãy dựa vào dàn ý để làm 1 bài hoàn chỉnh theo ý bạn nhé
Pham Nhu Y
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã ca ngợi về tinh thần cách mạng và lòng yêu nước đó của người dân Việt Nam, cụ thể là nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với quê hương và đất nước sâu sắc.
II. Thân bài
1. Khái quát về nhân vật ông Hai:
- Truyện kể về ông Hai, một người yêu làng và gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về làng của mình
- Ông cứ kể say sưa trong niềm nhớ thương về làng mà không cần biết người nghe có chú ý hay không.
2. Tình cảm của ông Hai đối với làng chợ Dầu:
- Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.
3. Diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo Tây:
- Khi ông nghe tin làng mình theo Tây, “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được
- Ông hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã khi biết làng mình theo giặc
- Khi về nhà, ông nằm vật ra gường, đêm đó trằn trọc không ngủ dc.
- Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.
- Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.
- Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước.
- Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chẳng làm được gì, chưa thể đối mặt với điều đó, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi
- Khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi bởi ông là người làng Chợ Dầu, ông thoáng nghĩ về lại làng nhưng ông đã gặt phăng đi, ông dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
4. Niềm sung sướng và vui mừng khi biết làng không phải Việt gian:
- Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê, bởi đó là minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn: tác giả đã cho người đọc hình dung được một thời kì chống Pháp sôi nổi của nhân dân, tinh thần trung kiên với Cách mạng và một lòng theo Bác, kháng chiến đến cùng
- Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai ta thấy được tình yêu làng sâu sắc và tình yêu nước thiết tha gắn với tinh thần kháng chiến của ông.
Ông Hai là người rất tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Khi phải di tản cư ông cứ nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cái không khí cách mạng của làng ông: "Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai...". Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn mà nói liên miên về cái làng của ông. Ông nói cho sướng miệng và để cho đỡ nhớ làng chứ không chú ý người khác có nghe không ? Sau những giây phút làm việc mệt nhọc, nằm gác tay lên trán, ông lại nghĩ về làng. Ông cứ muốn về làng, muốn được "cùng mọi người đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá...". Vì quá yêu, quá tự hào về cái làng của ông mà ông "nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân", "chết lặng đi tưởng như không thở được" khi nghe tin cả làng mình theo Việt gian ! Lúc đầu ông không thể tin, ông hỏi đi, hỏi lại "giọng ông như lạc hẳn": "Liệu có thật không hở bác. Khi có người quả quyết vì ra ở dưới ấy lên và nói chắc như đinh đóng cột ở làng ông "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi"..., thì ông Hai không thể nghe thêm được nữa. Ông đánh trống lảng rồi đi thẳng. Thông qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn ca ngợi tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hiền lành, chất phác. Chính tình yêu quê hương đất nước, ý thức giác ngộ cách mạng ấy mà họ một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, đứng lên giành quyền sống, giữ vững nền độc lập tự chủ của dân tộc trước mọi gian nan, thử thách.
Tham khảo!
Tình thương và niềm tin yêu mẹ, có một niềm khát khao âm thầm cháy bỏng luôn ấp ủ trong lòng bé Hồng: được gặp mẹ. Xa mẹ nhưng bé Hồng dường như vẫn bấm đốt ngón tay, tính từng ngày khắc khoải, chờ mong mẹ về.
Người mẹ đã trở về, nỗi nhớ, niềm mong của bé Hồng đã trở thành hiện thực. Đến đây có thể nói những rung động về mẹ của bé Hồng đã đến cực điểm qua ngòi bút miêu tả của nhà văn. Đầu tiên là cảm giác bối rối, hồi hộp đến nghẹn ngào của bé Hồng khi vừa tan trường ra nhìn thấy người đàn bà ngồi trên xe kéo giống mẹ, bé đuổi theo gọi bối rối: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!"
Tiếng gọi ấy bấy lâu nay chỉ là tiếng nấc thầm đau khổ của trái tim thơ dại nhưng đến nay đã bật lên thành tiếng thổn thức vừa mừng rõ sung sướng vừa vộ vã đến cuống quýt tội nghiệp như sợ bóng hình mẹ tan biến mất.
Mong ngóng bao ngày, giây phút gặp mẹ, bé Hồng vẫn cảm thấy như quá đột ngột, niềm vui, niềm hạnh phúc được gặp mẹ khiến bé ngờ không dám tin vào mắt mình nữa....
Gạch chân những yếu tố nội tâm cái đó mình không biết giúp với ạ
Trong đoạn trích trên đã thể hiện tâm trạng ngạc nhiên của ông Hai, ông chưa tin và không muốn tin rằng: làng chợ Dầu của mình theo giặc. Tâm trạng của ông Hai được bộc lộ trực tiếp qua những dòng độc thoại nội tâm.
Câu cảm thán: "Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được!"
Bạn tham khảo bài này:
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
-----Tham khảo-----
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
Kim Lân (1920-2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn có trường viết truyện ngắn, nổi bật với đề tài vieesrt về cuộc sống ở chốn làng quê. Các tác phẩm của ông hầu như viết về nông thôn và người nông dân. Truyện ngắn " Làng " được ông viết năm 1948 trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra trên cả nước. Nhân vật chính trong truyện - Ông Hai , một người nông dân phải đi tản cư nhưng có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, tinh thần kháng chiến cao, trung kiên với cách mạng . Có thể nói thành công lớn nhất của Kim Lân trong tuyện ngắn Làng là xây dựng thành công diễn biến tâm lí của nhân vật ông hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông Hai nghe được tin làng chợ Dầu yêu quý của ông theo Tây từ người đàn bà tản cư nói ra , ông dằn vặt , đau đớn , đấu tranh quyết liệt để lựa chọn con đường đi cho đúng. Cú sốc tinh thần " cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được." Ông xấu hổ như chính mình vừa làm cái điều nhục nhã ấy nên ông giả vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng : " ông cúi gằm mặt mà đi ", ông tránh ánh mắt của mọi người và tiếng chửi rủa của mọi người :" cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát ". Tất cả những gì ông giữ trong tim giờ đây đều sụp đổ. Càng nghĩ ông càng cảm thấy tủi thân. Về đến nhà thái độ cư xử của ông khác hẳn ngày thường: "ông nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi. Nhìn lũ con, nước mắt ông cứ trào ra." Ông thương con đến trào nước mắt " chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? " . Ông thấy nhục nhã và ghê tởm những người ông từng coi là anh em, ông chửi làng:" Chúng mày ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước thế này hả ?" . Tình yêu làng đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt trong lòng, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước , ông tự hào về làng mình bao nhiêu thì giờ đây ông xấu hổ trốn tránh bấy nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành nỗi ám ảnh, nỗi sợ vô hình đè nặng lên tâm tư ông. Sau tiếng chửi làng, ông thấy day dứt, lương tâm dằng xé. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc và thấy họ không thể nào theo giặc vì họ toàn là người yêu nước, đã quyết tâm sống chết với giặc thì làm sao có thể cam tâm làm việc đó. Thế rồi ý nghĩ chợt đến và qua nhanh. Nỗi tủi hổ, xót xa đã trở thành những cuộc tự chất vấn, , dằn vặt , giằng xé trong ông :" không có lửa làm sao có khói, mà thằng Chánh Bệu thì đích thực là người làng rồi , ai người ta hơi đâu bịa tạc ra chuyện đó ". Ông vẫn phải tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông đau đớn khi nghĩ về tương lai : " Ai người ta làm ăn buôn bán với, người ta ghê tởm cái giống Việt gian". Nỗi tủi hổ ấy có lúc bùng lên thành những cơn nóng giận. Ông sinh ra cáu gắt với vợ con, ông không dám ra khỏi nhà , suốt mấy ngày ông chỉ đóng cửa quanh quẩn trong gian nhà chật hẹp. Một đám đông xúm lại ông cũng để ý , răm ba tiếng cười nói ông cũng chột dạ. Chỉ nghe thấy tiếng "tây" ," cam-nhông " , " Việt Gian " là ông lại sợ, sợ người ta lại để ý đến mình. Tác giả đã diễn tả cụ thể nỗi ám ảnh của một con người coi danh dự của làng là danh dự của mình. Dù đã đi theo kháng chiến, ông không thể dứt bỏ tình cảm sâu nặng của mình với làng quê. Ông càng tủi hổ, đau đớn. Khi mụ chủ có ý đuổi gia đình ông ra khỏi nhà, ông không biết nhờ vào đâu, bế tắc, tuyệt vọng. Cái đau đớn, nhục nhã ấy chính là lòng yêu nước , yêu làng của ông . Bao nhiêu ý nghĩ ấy đẩy ông vào tình huống khó xử , buộc ông phải lựa chọn : " Hay là quay về làng ?" . Rồi ông lại nghĩ :" Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước. Cuối cùng ông đưa ra một quyết định dứt khoát :" Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù" . Ông Hai căm thù làng vì làng phản bội cách mạng. Tình yêu nước rộng lớn bao trùm tình yêu làng quê. Kim Lân đã rất thành công khi tạo ra tình huống và miêu tả tâm lí nhân vật qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc. Từ đó ca ngợi tình yêu làng , yêu nước của dân tộc Việt Nam trên mọi miền tổ quốc.