Hãy kể 1 câu chuyện nói lên nên tránh xa những cái xấu.
Lưu ý : Không được giống nhau, nếu giống nhau mìn không tick.
Ai nhanh mình sẽ tick!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chuyện vui hả , U23 Việt Nam thắng rồi , Việt Nam muôn năm , cố lên Việt Nam ơi , cố lên U23 ơi !!!!!!!!!!!!!!!!!!
Một buổi tối mùa đông lạnh giá, cả nhà em đang sôi nổi bàn chuyện mua sắm và chuẩn bị cho một cái tết thật vui. Bỗng từ xa vọng lại một tiếng rao yếu ớt của một cô bé. Em nhìn ra cửa sổ thì thấy đó là một cô bé đang bán bánh bao đêm.
Trông cô bé thật tội nghiệp. Quần áo rách rưới. Cô bé đi chân trần, vừa đi vừa xuýt xoa vì lạnh. Cô bé vừa đi vừa rao:"Ai bánh bao không! Ai bánh bao không!". Tiếng rao yếu ớt, bé nhỏ không thể xuyên qua những bức tường dày. Những ngôi nhà gần đó đều đóng cửa vì trời quá lạnh. Không ai ở trên đường hay ra ngoài để mua bánh cho cô bé.
Tuyết rơi càng lúc càng dày và thời tiết càng lúc càng lạnh. Cô bé dừng lại, ngồi cạnh bức tường bên cạnh nhà em và xoa tay. Bỗng cô bé ngã dần xuống. Em vội vã gọi mẹ rồi kéo mẹ ra chỗ cô bé. Mẹ đưa cô bé vào nhà và chăm sóc.
Một lúc sau, cô bé tỉnh dậy. Sau khi hỏi vài câu, mẹ mới biết cô bé là trẻ mồ côi, đang làm thuê cho tiệm bánh bao đầu phố. Cô bé phải bán hết chỗ bánh bao trong giỏ rồi mới được nghỉ nhưng hôm nay vì lạnh nên không ai mua bánh cả. Thương tình, mẹ em nói:
- Cháu cứ nghỉ đi, mai cô nói với chủ quán cho cháu nghỉ làm. Từ nay cháu sẽ ở lại đây với nhà cô nhé!
- Vâng ạ!-Cô bé đáp lại mẹ em trong niềm vui sướng.
Trên đất nước này còn rất nhiều hoàn cảnh như cô bé đó. Chúng ta phải giúp đỡ họ để họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
A
1. Ách giữa đàng, quàng vào cổ: Tự ý mình, liên lụy vào việc người khác.
2. Ai ăn mặn, nấy khát nước: Ai làm quấy, làm ác thì sẽ chịu hậu quả.
3. Ai chê đám cưới, ai cười đám ma: Nhà có việc thì tùy sức mà làm, sợ gì thiên hạ dòm ngó cười chê.
4. Ai đội mũ lệch, xấu mặt người ấy: Ai làm quấy thì thiên hạ cười chê họ, mình không hơi sức đâu mà lo bao đồng.
5. Ai giầu ba họ, ai khó ba đời: giầu nghèo đều có lúc, giầu không nên ỷ của, nghèo không nên thối chí.
---
6. Ăn bánh vẽ: bị gạt bằng những lời hứa suông.
7. Ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng: ăn ít, phải làm nhiều, không đáng công.
8. Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt: điều xấu sẽ thành thói quen xấu
9. Ăn cây nào, rào cây nấy: chịu ơn ai, phải giữ gìn, bênh vực người ấy.
10.Ăn có chỗ, đỗ có nơi: phải có thứ tự, ngăn nắp, đừng bừa bãi, cẩu thả.
---
11.Ăn có mời, làm có khiến: phải theo kỉ luật, đợi lệnh trên khi vào nơi lạ/ (Thấy cơm thì ăn, thấy việc thì làm, là khi ở chỗ quen).
12.Ăn có nhai, nói có nghĩ: trước khi nói điều chi, phải suy nghĩ kĩ như ăn phải nhai.
13.Ăn có thời, chơi có giờ: sống phải có giờ giấc, không nên làm theo hứng.
14.Ăn trông nồi, ngồi trông hướng: nên thận trọng, tránh lỗi lầm về tư cách
15.Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau: người ích kỉ, trước lợi ích thì sốt sắng dành phần, trước khó khăn thì giả vờ để tránh.
---
16.Ăn cơm nhà nọ, kháo cà nhà kia: nói xấu người kia để người này cho mình hưởng lợi hơn.
17.Ăn cơm với bò thì lo ngay ngáy, ăn cơm với cáy thì ngáy o o: giầu có chưa chắc đã được an bình, vô tư hơn người nghèo.
18.Ăn cướp cơm chim: cậy quyền ăn chận, ăn bớt tiền bạc của người nghèo.
19.Ăn cháo đá bát: người vô ơn, chịu ơn người ta rồi nói xấu người ta. Hưởng xong rồi phá cho hư, không để người khác hưởng.
20.Ăn chắc mặc dày: thành thật, không môi mép, không đưa đẩy.
---
21.Ăn cho đều, tiêu cho sòng: nên xử công bằng, đứng đắn trong việc chi tiêu chung.
22.Ăn để sống, không sống để ăn: ăn uống để có sức khỏe mà làm việc, đừng tham ăn uống mà bị chê.
23.Ăn kĩ làm dối: chê người ăn thì không bỏ sót, nhưng làm thì giả dối cho qua lần.
24.Ăn kĩ no lâu, cầy sâu tốt lúa: kinh nghiệm, ăn uống, làm việc gì cũng nên làm kĩ càng, hiệu quả sẽ tốt hơn.
25.Ăn không, nói có: người đặt điều, đưa điều vu oan là người xấu.
--
26.Ăn không, ngồi rồi: người không lao động, làm việc, nhàn rỗi, không tốt.
27.Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ: không nên nói nhiều, kẻo nói lỡ lời (đa ngôn, đa quá).
28.Ăn lúc đói, nói lúc say: khi say rượu thường nói những lời dại dột, khó nghe.
29.Ăn mày đòi xôi gấc: nghèo mà ham của sang trọng, không xứng.
30.Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối: không đi tu chùa mà ở thật thà, còn hơn đi tu mà gian dối.
---
31.Ăn một miếng, tiếng để đời: hưởng của bất chính, dù ít, cũng mang tiếng xấu lâu dài.
32.Ăn no ngủ kĩ, chẳng nghĩ điều gì: người không biết lo xa, được sung sướng, đầy đủ, không biết nghĩ đến tương lai.
33.Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành: khuyên sống ngay thật, đứng đắn thì lòng không phải thắc mắc lo ngại.
34.Ăn ốc nói mò: người gặp gì nói nấy, không có chi mới lạ, không có sáng kiến, suy đoán dông dài.
35.Ăn vóc, học hay: đã biết ăn ngon, phải biết học giỏi, học chăm.
36.Ăn xổi ở thì: tạm bợ, không chắc chắn, không lâu dài, không tình nghĩa.
B
37. Ba mặt một lời: chuyện xảy ra nhiều người đã nghe, đã thấy, không thể nghi ngờ, chối cãi.
38. Bán anh em xa, mua láng diềng gần: nên quí người thân cận.
39. Bán quạt mùa Đông, mua bông mùa hè: làm chuyện không hợp thời, chỉ rước lấy thất bại, bị chê cười.
---
40. Bắt cá hai tay: làm hai việc một lúc, lắm khi hỏng cả hai.
41. Bắt người có tóc, ai bắt kẻ trọc đầu: cư xử khôn khéo mới có lợi
42. Bé không vin, cả gãy cành: dạy trẻ phải bắt đầu từ nhỏ. Không dạy con khi nó còn trẻ, người còn lạ việc, lớn lên, quen thói, không dạy được nữa, không nghe nữa.
43. Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe: việc gì biết rành sẽ nói, bằng không thì nên nghe để học thêm.
44. Bỏ thương, vương tội: bứt rời ra thì không nỡ, mang theo thì khó khăn.
45. Bóc ngắn cắn dài: kiếm được ít tiền mà xài nhiều, không khôn.
---
46. Bói ra ma, quét nhà ra rác: bới móc chuyện người.
47. Bốc lửa bỏ bàn tay: tự mình làm nguy cho mình, chuyện hoãn làm ra gấp.
48. Bới bèo ra bọ: cố làm ra chuyện, dù chẳng có gì.
49. Bới lông tìm vết: cố gây chuyện.
50. Bớt thù thêm bạn: kéo kẻ thù về phía mình, nhờ tha thứ, cư xử tốt.
51. Bụt trên tòa, gà nào mổ mắt: nếu kẻ lớn có tư cách lớn, kẻ dưới không dám khinh nhờn.
52. Buôn thần bán thánh: kẻ xấu, dựa vào chùa miếu, lấy danh nghĩa thần thánh Phật Trời, lợi dụng lòng mê tín của người ta mà làm tiền.
C
53. Cà kê dê ngỗng: nói lôi thôi lượt thượt hết chuyện này tới chuyện khác.
54. Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư: con cái cãi lời cha mẹ, phần nhiều đều hư, hơn nữa, theo đạo hiếu, đó là tội bất hiếu thứ nhất trong 3 tội bất hiếu.
Thời nay, nhất là ở nước văn minh, cần xét lại câu này. Nói chung, khi gặp điều không đúng, không vừa ý, con cái không nên cãi, nhưng nên nói lại tử tế, bình tĩnh, kính trọng.
55. Cá lớn nuốt cá bé: thói đời, thường mạnh hiếp yếu, cần giáo dục đạo làm người để bớt cái luật cạnh tranh ấy, để đời sống trường tồn, tốt đẹp.
56. Cả vú lấp miệng em: ỷ lớn, nhiều lời, không cho đối phương lên tiếng.
57. Cách mặt xa lòng: khi xa nhau thì quên mất tình nghĩa đã có.
58. Cái áo không làm nên thầy tu: dáng bên ngoài không đủ nhận định giá trị con người.
59. Cái gì làm được hôm nay, đừng để đến ngày mai: không nên chần chừ mà hỏng việc.
60. Cái gương tày liếp: chuyện xấu to lớn đáng để làm gương cho người đời sau xem đó mà tránh
61. Cái khó bó cái khôn: vì nghèo mà dù khôn ngoan, có nhiều sáng kiến hay tài nghề cũng không thi thố được
62. Cái miệng hại cái thân: nói nhiều, khoe khoang tài hay sức giỏi, chỉ tổ làm hại thân mình
63. Cái nết đánh chết cái đẹp: đàn bà có nết được quí trọng hơn xinh đẹp (vợ Hứa Doãn là Nguyễn thị nhan sắc rất kém. Khi làm lễ cưới xong, Hứa Doãn trông thấy vợ xấu muốn lập tức đi thẳng, bèn hỏi Nguyễn thị rằng:
-Đàn bà có tứ đức, nàng được mấy đức?
-Thiếp đây chỉ kém có "Dung" mà thôi. Kẻ sĩ có bách (100) hạnh, dám hỏi chàng được mấy hạnh?
-Ta đây có cả bách hạnh.
-Bách hạnh thì "đức" đứng đầu, chàng là người háo sắc, không háo đức, sao dám bảo là có đủ bách hạnh?
Hứa Doãn có sắc thẹn. Từ bấy giờ, vợ chồng yêu mến, kính trọng nhau suốt đời. (Cổ học Tinh hoa)
64. Càng cao danh vọng, càng dày gian nan: lắm khi vì danh vọng, địa vị cao mà hại đến thân
65. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, béo chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn phơi ra: cư xử thế nào cũng không vừa ý người khó tính
66. Cao không tới, thấp không thông: kén chọn khó khăn, không vừa, không xứng
67. Có công mài sắt có ngày nên kim: cố gắng thì việc khó thế nào cũng phải xong
68. Có cứng mới đứng đầu gió: phải tài giỏi mới gánh nổi việc khó
69. Có chí làm quan, có gan làm giầu: có quyết tâm gan dạ, gặp nguy hiểm khó khăn không chùn, sẽ làm nên sự nghiệp
70. Có đi có lại mới toại lòng nhau: hưởng của người cần đền đáp cho cân
71. Có gan ăn cắp, có gan chịu đòn: làm điều sai quấy phải chịu hậu quả, không nên trốn tránh
72. Có hoa hường nào không có gai: gái đẹp nào cũng có mầm mống tai hại cho đàn ông
73. Có ít xít ra nhiều: việc xảy ra giản dị tầm thường, nhưng kẻ nói lại thêu dệt cho ra to lớn, có thể sinh hậu quả không hay.
74. Có khó mới có khôn: làm xong việc khó, người ta có thêm kinh nghiệm
75. Có khó mới có mà ăn, ngồi không ai dễ đem phần tới cho: gặp khó khăn vẫn cố gắng chịu đựng, lướt qua, mới thành sự để hưởng
76. Có lửa mới có khói: việc gì cũng có nguyên nhân
77. Có mới nới cũ, mới để trong nhà, cũ để ngoài sân: thường tình, phần đông ai cũng yêu chuộng của mới lạ, nên nâng niu chiều chuộng và chán vật cũ đã dùng lâu, nên để dẹp lại hoặc ruồng rẫy
78. Có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ: an phận với nếp sống của mình, không trèo đèo, không tham vọng. Có con trai cũng mừng, con gái cũng quí
79. Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ: khi nuôi con cực khổ mới hiểu công khó và lòng thương con của cha mẹ khi mình còn bé
80. Có ơn phải sợ, có nợ phải trả: đã chịu ơn ai phải nể nang họ. Mắc nợ ai, luôn lo ngại không trả được, nên chịu ơn và vay nợ là cực chẳng đã
81. Có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con biết trèo: con biết lội, té sông không chết, con ham trèo, rủi sẩy tay, có ngày bỏ mạng.
82. Có phúc làm quan, có gan làm giầu: nhà có phúc, có con học giỏi thì được làm quan. Giầu có là nhờ gan dạ, dám mua bán lớn, dám mạo hiểm
83. Có sự thì vái tứ phương, không sự đồng hương không mất: có tai nạn thì cầu Trời khấn Phật, lạy lục vái van, bình thường thì không biết đến Trời Phật. Có việc cần kíp thì đến lạy lục nhờ vả, xong việc thì quên luôn, không ngó tới
84. Có tài có tật: người tài giỏi thường ỷ mình mà sinh tật kiêu căng tự đắc, ỷ tài mà không nghĩ đến ngày sau
85. Có tật có tài: thường có bộ phận mang tật thì các bộ phận khác nảy nở hơn, khéo léo hơn, mạnh mẽ hơn, vd.người mù thì thính tai thính mũi.
86. Có tích mới dịch ra tuồng: mọi chuyện đều có nguyên nhân
87. Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược cũng không: có nhiều tiền thì mua chi cũng được, dù mua tiên là nhân vật không tưởng.
88. Có tiếng mà không có miếng: được người đồn là có tiền, có tài, nhưng kì thực không có
89. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành: có tin tưởng thờ phượng thì có linh thánh, biết kiêng cữ thì bớt bệnh nạn
90. Có thực mới vực được đạo: thân xác có ấm no mới bênh vực được đạo của mình
91. Coi người bằng nửa con mắt: khinh người, không coi ai bằng mình
92. Coi Trời bằng vung: tự đắc, kiêu ngạo, kể mình là tài giỏi hơn cả
93. Con cá sẩy là con cá lớn: sẩy rồi sao biết nó lớn hay nhỏ, nên cứ khoe khoang
94. Con có khóc mẹ mới cho bú: người có quyền lợi, có sự đòi hỏi mới thỏa mãn nguyện vọng
95. Con chẳng chê cha khó, chó chẳng chê chủ nghèo: vì tình ruột thịt con cái không chê cha mẹ, chó đói kiếm ăn nơi khác rồi lại về với chủ
96. Con dại cái mang: con làm điều lỗi thì cha mẹ mang trách nhiệm không dạy dỗ răn đe.
97. Con gái giống cha, giầu ba mươi họ, con trai giống mẹ, khó đến tận xương (kinh nghiệm)
98. Con gái mười bảy bẻ gẫy sừng trâu (kinh nghiệm)
99. Con hát mẹ khen hay: vì chủ quan, thiên vị sinh ra bất công
100. Con nhà lính, tính nhà quan: kẻ thấp hèn mà học thói xa hoa sang trọng, kẻ tay sai mà lên mặt hống hách với dân làng, nên bị khinh
---
101. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh: con cái không giống cha mẹ chỗ này cũng giống chỗ khác
102. Con rô cũng tiếc, con giếc cũng muốn: tham lam và do dự, được món này muốn món kia, lấy người này tiếc người nọ
103. Còn mẹ ăn cơm với cá, chết mẹ liếm lá đầu đường: có mẹ còn sống con được nuôi dưỡng tử tế
104. Còn nước còn tát: còn có thể chạy chữa thì gắng, cùng đường hết sức mới thôi
105. Còn người còn của: còn sống còn làm ra của khác, không nên tiếc của mà thiệt thân
106. Còn tiền còn duyên nợ, hết tiền hết vợ chồng: lấy nhau vì của chứ không vì tình, nên khi hết của, bỏ nhau
107. Cõng rắn cắn gà nhà: rước người ngoài về hiếp đáp người nhà
108. Công nợ trả dần, cháo nóng húp quanh: mắc nợ trả từ từ thì hết, cháo nóng quá cứ húp quanh bát mãi cũng xong (húp vội như con nhà giầu sẽ bị bỏng miệng)
109. Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà (ruộng vườn) bán hết tra chân vào cùm: ai cờ bạc tất phải nghèo, và khi phạm tội cướp bóc để có tiền chơi sẽ bị tù tội
110. Cờ đến tay ai người ấy phất: dịp may đến với ai để người ấy hưởng
111. Cơm chẳng lành canh không ngọt: vợ chồng lục đục xào xáo cãi cọ nhau
112. Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê: nín nhịn đang cơn cãi vã, tránh đổ vỡ gia đình
113. Của không ngon, nhà nhiều con cũng hết: nhà đông con, đứa này chê, đứa khác xơi
114. Của chồng, công vợ: chồng làm ra, vợ gìn giữ, đó là của chung.
115. Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân: của do công lao làm ra mới đáng giữ, đáng xài
116. Của người bồ tát, của mình lạt buộc: hô hào thiên hạ làm lành làm nghĩa, mà chính mình thì sẻn, một đồng cũng chẳng bỏ ra
117. Của rẻ của hôi, của để đầu hồi là của vứt đi: đồ mua rẻ phần nhiều không tốt, vợ chồng lấy nhau dễ quá, thường ở không bền
118. Cung chúc tân xuân: nhân năm mới, xin cung kính chúc mừng
119. Cha chung không ai khóc: của chung không ai thấy trách nhiệm giữ gìn
120. Cha mẹ sinh con, trời sinh tính: cha mẹ chỉ sinh hình hài chứ không sinh tính tình
121. Cháy nhà ra mặt chuột: khi vỡ lở chuyện, mới thấy kẻ giả đạo đức
122. Chê anh một chai, phải anh hai lọ: bỏ anh chồng say, lấy anh khác lại uống rượu nhiều hơn anh trước
123. Chết cả đống còn hơn sống một người: nêu cao tinh thần đoàn kết
124. Chết vinh hơn sống nhục: sống bị chê bai, thà chết còn hơn
125. Chị ngã em nâng/ Tưởng là chị ngã em nưng, ai ngờ chị ngã em bưng miệng cười:chị em không biết giúp đỡ nhau
126. Chỉ một đường, đi một nẻo: chỉ dạy cho rành rẽ mà làm không đúng
127. Chín bỏ làm mười: xí xóa, bỏ qua, dễ dãi
128. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng: ỷ thế địa phương, hiếp đáp người lạ
129. Chó đâu có sủa lỗ không, chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày: việc gì cũng có nguyên nhân, có lí do
130. Chó gầy hổ mặt người nuôi: người trên để người dưới đói khổ
131. Chó ngáp phải ruồi: thành công nhờ may mắn, chớ không vì tài giỏi
132. Chó treo mèo đậy: phải cất dịp đi cho người dưới kẻo bị cám dỗ
133. Chơi với chó, chó liếm mặt: người trên không đứng đắn, kẻ dưới khinh lờn
134. Chuyện bé xé ra to: chuyện nhỏ, bị thêu dệt ra nhiều chi tiết
135. Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì quáng: ngoài cuộc thấy rõ chi tiết chuyện hơn trong cuộc
136. Chuột sa chĩnh gạo: may mắn được làm rể nhà giầu, được vào nơi đầy đủ sung sướng
137. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng xóm: người hống hách, phách lối
138. Chưa hết rên đã quên thầy: quá bội bạc, phụ ơn người giúp mình
139. Chưa khỏi vòng đã cong đuôi: như trên
140. Chửi cha không bằng pha tiếng: không nên nhái giọng địa phương
D
141. Danh chánh ngôn thuận: đúng danh nghĩa thì làm gì cũng xuôi thuận
142. Dĩ đức báo oán: lấy ơn đức xử với kẻ thù để tiêu diệt mối thù
143. Dĩ hòa vi quí: lấy sự hòa thuận nhau làm quí nhất
144. Dùi đục chấm nước mắm: ăn nói cộc cằn thô lỗ khó nghe
145. Dửng dưng như bánh chưng ngày Tết: nguội lạnh, không muốn để ý tới
Đ
146. Đa ngôn đa quá: nói nhiều lỗi nhiều
147. Đa nhân duyên, nhiều phiền não: nhiều tình, nhiều khổ
148. Đã trót phải trét: lỡ làm ra việc gì, dù khổ cũng phải theo
149. Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu: đàn ông suy nghĩ xa hơn, mạnh sức hơn đàn bà
150. Đánh trống bỏ giùi: người nông nổi cẩu thả, xong việc vứt bỏ bừa bãi
151. Đào vi thượng sách: trong nguy nan, trốn đi là cách hay hơn cả
152. Đâm bị thóc, thọc bị gạo: chọc tức, khiêu khích cả 2 đàng
153. Đâm lao phải theo lao: lỡ làm ra việc gì, dù khổ cũng phải theo
154. Đầu xuôi đuôi lọt: đầu to mà qua được thì đuôi bé qua dễ dàng. Việc khởi đầu thường khó mà trôi chảy, những việc sau không khó khăn chi
155. Đầu voi đuôi chuột: khởi đầu lớn lao, rốt cuộc tầm thường
156. Đi dối cha, về nhà dối chú: kẻ gian xảo, bất hiếu
157. Đi đêm có ngày gặp ma: liều lĩnh mạo hiểm nhiều lần, thế nào cũng có ngày cũng thất bại to
158. Đi guốc trong bụng: tự hào hiểu rành mạch sự toan tính lo nghĩ của người
159. Đi (ra đường) hỏi già về nhà hỏi trẻ: ngoài đường người già ít khuấy chơi, ở nhà trẻ con thường nói thật
160. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn: đi xa sẽ thêm nhiều hiểu biết
161. Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy: ăn mặc phải tùy hoàn cảnh, với người giầu, người nghèo, để khỏi bị khinh
162. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết/ Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao: trước việc khó, chung nhau giải quyết sẽ thành công
163. Đói ăn rau, đau uống thuốc: đói thì rau gì ăn được cũng ăn, cần no bụng. Bệnh thì thuốc gì uống đuợc cũng uống, cần khỏi bệnh.
164. Đói ăn vụng, túng làm liều: khi thiếu thốn khiến người ta làm việc phi pháp bất lương.
164bĐói cho sạch, rách cho thơm: khuyên dù nghèo đói cũng phải giữ danh dự mình
165.Đói đầu gối phải bò: nghèo túng bắt buộc phải xoay xở
166. Đổi trắng thay đen: người ngược ngạo
167. Đồng bạc đâm toạc tờ giấy: tiền bạc có thễ thay đổi luật pháp
168. Đồng tiền liền khúc ruột: tiền bạc quý như thân thể, nên người ta bo bo giữ gìn
169.Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào: cờ đến tay ai người ấy phấy. Ai có nhiệm vụ, họ cũng có sáng kiến giải quyết sự việc.
170. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước: cha làm ác, con chịu hậu quả
171. Đục nước béo cò: tình thế lộn xộn là dịp tốt cho kẻ trục lợi
172. Đứng mũi chịu sào: giữ vai quan trọng, chịu trách nhiệm cho tất cả
173. Đứng núi này trông núi nọ: không an phận, lúc nào cũng phân bì
174. Được chim bẻ ná, được cá quên nơm: được việc rồi, quên ơn, bỏ người đã giúp mình nên việc
175. Được đàng chân, lân đàng đầu: tham lam
176. Đứt dây động rừng: nói một người, người khác nghĩ ngợi
177. Được làm vua, thua làm giặc: trong cuộc tranh chấp, kẻ thắng được hơn, người thua chịu kém
178. Được lòng ta, xót xa lòng người: phần mình sướng, tội nghiệp phần người
179. Được tiếng khen ho hen chẳng còn: được khen, nhưng mình mất quá nhiều công sức
180. Được voi đòi tiên: (giống câu 175) quá tham lam
181. Đường đi ở miệng: tới nơi lạ phải chịu hỏi người
182. Đường đi hay tối, nói dối hay cùng: nói dối quanh rồi cũng bị lộ
183. Đứa (người) đi chẳng bực bằng người chực nồi cơm: chờ chực thời gian tâm lí ra như dài, sốt ruột
E
184. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên: việc hôn nhân con cái, cha mẹ nên hướng dẫn hơn thiệt, không nên ép buộc
185. Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung: người học ít mà tự phụ, như ếch chỉ thấy trời to như miệng giếng thôi
G
186. Gà chết vì tiếng gáy (gà tức nhau vì tiếng gáy): con người bị hại thường do lời mình nói ra khoe khoang
187. Gai trên rừng ai vót mà nhọn, trái trên cây ai vo mà tròn: mọi sinh vật kể cả tâm tánh con người, đều do một Đấng Thiêng liêng tạo ra, không ai muốn thế này hay thế khác mà được
188. Gái có chồng như gông đeo cổ, gái không chồng như phản gỗ long đanh: cuộc hôn nhân có những đau khổ, nhưng người ta chấp nhận bước vào
189.Gái ngoan làm quan cho chồng: giúp chồng học làm quan, giúp chồng lên chức
190. Gái tham tài, trai tham sắc: thường con gái thích lấy chồng giầu, con trai thích lấy vợ đẹp
191. Gậy ông đập lưng ông: mình chịu hại do mình gây ra
192. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng: ảnh hưởng nhau, gần ai giống người ấy
GI
193. Già rồi còn chơi trống bỏi: chê người già lấy vợ trẻ, người già còn mê nhan sắc
194. Già bát canh, trẻ manh áo mới: nhờ canh già ăn ngon, nhờ áo đẹp trẻ ngủ ngon
195. Già néo đứt giây: điều kiện khó quá, đòi hỏi quá sẽ hỏng việc
196. Già sinh tật như đất sinh cỏ: người già thường lẩm cẩm, khó tính, trách móc, nhiều đòi hỏi
197. Giầu đâu ba họ, khó đâu ba đời: đừng tự hào cũng đừng nản
198. Giàu tham việc, thất nghiệp tham ăn: thói thường chịu khó làm giầu thêm, ăn nhiều làm nghèo thêm
199. Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh: khi có giặc, đàn bà cũng có phận sự như đàn ông
200. Giấy rách phải giữ lấy lề: dù nghèo hay sa sút cách nào cũng phải giữ tư cách
201. Giận cá chém thớt: giận ai, hay tức mình vì duyên cớ nào, rồi gặp người nào cũng gây gổ, hoặc đánh đập con cái
202. Giấu đầu hở đuôi: giấu một việc mà sơ ý, nói ra một chi tiết, người ta biết cả chuyện
203. Gieo gió gặt bão: làm ra nguyên nhân, phải chịu hậu quả
204. Gió chiều nào che chiều nấy: tùy thời mà sống, muốn yên thân, người không lập trường riêng
205. Giật đầu cá, vá đầu tôm/giật gấu vá vai: mượn của người này trả cho người kia
H
206. Hà tiện mà ăn cháo hoa, đồng đường đồng đậu cũng ra 3 đồng: hà tiện không biết tính toán
207. Há miệng chờ ho: chờ một tai vạ sắp tới
208. Há miệng chờ sung: lười ở không, đợi bữa ăn
209. Há miệng mắc quai: mở miệng nói điều gì là đụng chạm, bị bắt lỗi, bị vạ
210. Hai bàn tay trắng: nghèo không có tiền bạc chi cả
211. Hai sương một nắng: cực khổ vất vả suốt ngày
212. Hết chuyện nhà, ra chuyện người: người nhiều chuyện, bới chuyện
213. Hết khôn dồn dại: nói nhiều quá, lỡ lời
214. Hết nạc, vạc xương: ăn cào cấu, không chừa lại gì
215. Hết xôi, rồi việc: ăn xong đi mất, không giúp gì người cho ăn
216. Hoa thơm đánh cả cụm: tham lam, lấy chị, lấy cả em
217. Họa phúc khôn lường: không dò trước được
218. Học ăn học nói học gói học mở: ở đời phải học biết cách sống
219. Học chẳng hay, cày chẳng biết: đàn ông hư, chẳng biết nghề gì
220. Học thầy, không tày học bạn: học trong trường và học thêm ngoài đời
221. Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại: nói nặng người, bị người chửi lại. Nhận quà người cho, phải liệu cho lại
222. Hồng nhan bạc phận: đàn bà đẹp thường có số phận mong manh
223. Hùm chết để da, người ta chết để tiếng: tiếng tốt xấu, dù chết vẫn còn
224. Hùm dữ chẳng ăn thịt con: tình mẹ con bao giờ cũng thắm thiết, thiên tư
225. Hứng tay dưới, với tay trên: người tham lam, lừa lọc
226. Hữu chí cánh thành: có chí thì nên, sự việc sẽ thành công
227. Hữu danh vô thực/ Có tiếng mà không có miếng: có địa vị, nhưng không có tài điều hành
228. Hữu tài vô hạnh: tài ba chưa đủ, nếu đức hạnh không tốt
229. Hữu xạ tự nhiên hương: có tài tự nhiên người biết, không cần khoe
I
230. Ích kỉ hại nhân: muốn lợi cho mình, nhưng làm hại người
231. Ít kẻ yêu, hơn nhiều người ghét: sẽ có hại nhiều
K
232. Kẻ cắp gặp bà già: kẻ ranh mãnh gặp người ranh mãnh hơn
233. Kẻ có tình rình người vô ý: người ngay thật thường thua người gian trá núp trong bóng tối
234. Kẻ kia tám lạng người này nửa cân: 2 bên bằng nhau, 1 cân ta có 16 lạng (lượng)
235. Kén cá chọn canh: chọn bạn trăm năm cách kĩ càng là điếu tốt, nhưng không nên quá, vì con người ta không có ai tuyệt đối
236. Kéo cày trả nợ: làm việc vì phải làm, không sốt sắng lắm
237. Kiếm củi 3 năm thiêu một giờ/ Khôn ba năm, dại một giờ: sự nghiệp xây dựng rất lâu,chỉ một lúc vô ý, dại dột mà tiêu tan hết, thường nói về trinh nữ...
238. Kiến bò bụng: đói bụng, ví như kiến bò
239. Kiến tha lâu cũng đầy tổ: kiên nhẫn mỗi ngày một ít, lâu ngày thành công
240. Kì đà cản mũi: ngăn cản việc người khác, vô tình hay có ý
KH
241. Khẩu Phật tâm xà: miệng nói tốt lành mà lòng độc dịa hại người
242. Khen nhà giầu lắm thóc: một lời khen thừa thãi
243. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm: nghèo mà biết tiết kiệm thì không thiếu thốn
244. Khéo nói hơn liều mạng: ngoại giao dàn xếp được thì tốt hơn đánh nhau
245. Khéo tay hơn hay làm: làm việc có phương pháp thì thành công hơn
246. Khéo vá hơn vụng may: người nghèo mà tài thì hơn người giầu có
247. Khỉ ho cò gáy: vắng vẻ xa xôi, không người lui tới
248. Khó bó khôn: nghèo không thực hiện được cái hay của mình
249. Khó người khó ta: gây khó cho người, người cũng có thể gây rắc rối lại
250. Khỏi (hết) rên quên thày/ Khỏi vòng cong đuôi: khi cần thì năn nỉ, xong việc thì quên người làm ơn
251. Khố rách áo ôm: nghèo khổ không nhà cửa, không đồ dùng
252. Khôn ăn người, dại người ăn: lẽ thường khôn dại trong cuộc tranh sống
253. Khôn ba năm, dại một giờ: sự nghiệp hay tiếng tốt, mất nhiều năm tạo ra, vì lỗi lầm trong chốc lát tiêu tan hết cả, thường nói về cờ bạc, trinh tiết
254. Khôn chết, dại chết, biết sống: khôn bị ghét, dại bị gìm, biết địch mạnh thì ẩn, địch yếu thì đánh
255. Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, giở giở ương ương tổ cho người ghét: khôn người ta nể, dại để học thêm, dại mà ra mặt khôn, người ta ghét
256. Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già: trẻ có khôn, không bằng người lớn, già có khỏe không còn trẻ như xưa
257. Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay: người khôn mặt sáng, người què dễ thấy
258. Khôn nhà dại chợ: nạt nộ người nhà, khúm núm người ngoài
259. Khôn sống mống chết: khôn biết cân nhắc, tùy thời, dại cứ cố chấp sẽ thiệt thân
260. Không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời: xưa có thời cứ 3 năm chia lại ruông đất, nghèo mà cố gắng có thể thành giầu
261. Không có lửa sao có khói: đã có quả, phải có nhân
262. Không thành công cũng thành nhân: lời cụ Nguyễn Thái Học VNQDĐ 1930
263. Không thầy đố mày làm nên: không nhờ ai chỉ dẫn thì không làm nên việc
264. Không ưa thì dưa có dòi: không thích thì kiếm chuyện, bới xấu
L
265. Lá lành đùm lá rách: người khá giả giúp người nghèo đói
266. Lá rụng về cội: con cái dù được ai nuôi dưỡng cũng tìm về cha mẹ đẻ
267. Lạy ông tôi ở bụi này/ Ai khảo mà xưng): người dại dột, tự cáo tội mình
268. Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu: lẽ thường, không nên vì bị chọc ghẹo mà làm lớn chuyện hại mình
269. Làm khách sạch ruột: làm bộ từ chối mà chịu đói bụng
270. Làm lành lánh dữ: làm điều tốt lành, tránh điều độc ác là luật tự nhiên con người
271. Làm ơn mắc oán: có khi làm ơn gây ra oán thù, mình bị hại
272. Làm phúc nơi nao, cầu ao rách nát: trách người làm phúc chỗ khác mà địa phương mình thì không
273. Làm phúc quá tay, ăn mày không kịp: trách người không biết suy tính đấn đo
274. Làm rể nhà giầu, vừa được cơm no, vừa được bò cỡi: mỉa mai người hành động chỉ để được ăn uống, hưởng lợi
275. Làm tớ người khôn hơn làm thầy kẻ dại: ở với người khôn được nhiều lợi, với người dại mang nhiều tiếng xấu
276.Lành làm gáo, vỡ làm muôi: khéo lợi dụng tất cả, không bỏ phí gì, sao cũng được
277. Lắm mối tối nằm không: nhiều nhân tình, không ai làm vợ để xây dựng làm ăn
278. Lắm sãi không ai đóng cửa chùa: nhóm đông người, không ai điều khiển, không ai để ý làm việc chung
279.Lắm thầy thối ma, nhiều cha con khó lấy chồng: nhiều ý kiến, không biết theo ai
280.Lấy vải thưa che mắt thánh: làm việc gian để dối gạt kẻ trên, nhưng bị lộ
281. Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam: hướng nam luôn có gió thổi mát cho nhà nghèo
282. Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống: kết hôn cần chọn con nhà đức độ, tránh gia truyền bệnh tật
283. Lấp sông lấp giếng, ai lấp được miệng thiên hạ: miệng đời tự do ăn nói, khó cản
284. Lệnh làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ: việc ai nấy lo, đừng xía vô việc người
285.Lệnh ông không bằng cồng bà: nói về người chồng quá nể hay sợ vợ
286. Liệu cơm gắp mắm, liệu con gả chồng: con gái lớn thường sợ lỡ việc hôn nhân
287. Lo cho bò trắng răng: lo những chuyện không ai cần mình lo
288. Lon ton như con với mẹ: nói năng mừng rỡ hấp tấp vội vàng
289.Lời nói không mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau: nói năng phải suy nghĩ trước sau để được việc mới hay
290. Lời thật mất lòng/ thuốc đắng đã tật.../lời thật trái tai: tự nhiên không thích lời nói trái tai
291. Lợn lành chữa ra lợn què: đồ hư ít, chữa xong lại hư nhiều vì không biết sửa
292. Lợn trong chuồng thả ra mà đuổi: tự mình gây ra chuyện khó cho mình
293. Lửa cháy còn đổ dầu thêm: người ta đang nóng giận, lại nói thêm cho họ giận thêm
294. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén: trai gái thân nhau quá, lâu ngày khó tránh sa ngã, vụng trộm
295. Lửa thử vàng, gian nan thử đức: phải chờ người qua gian nan mới biết giá trị
296. Lực bất tòng tâm: có lòng muốn, nhưng không có sức làm
297. Lưỡi không xương , nhiều đường lắt léo: lời nói dễ tráo trở, hiền ra dữ, làm hư việc, xấu tốt đều do miệng lưỡi, nói năng
298. Lưỡi mềm lưỡi còn, răng cứng răng rụng: mềm mỏng, nhịn nhục tránh được tai họa, cứng cỏi, háo thắng, thân khó an toàn.
M
+Ta không được chọn nơi mình sinh ra. Nhưng ta được chọn cách mình sẽ sống.
+Không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người tuyệt vọng vì hoàn cảnh.
+Hãy sống là chính mình, bình thường nhưng không tầm thường.
+Bạn sinh ra là một nguyên bản. Đừng chết đi như một bản sao
+Cuộc sống không tặng cho ta thứ gì cả. Những gì cuộc sống đem lại cho ta đều đã được ghi giá một các kín đáo.
+Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình người.
+Càng trưởng thành, bạn sẽ nhận ra rằng tranh luận đúng sai hơn thua với người khác đôi khi không còn quan trọng nữa. Quan trọng hơn cả là chỉ muốn bình yên.
ko có ý ngĩa giống nhau , bởi vì Nếu nói tàu hỏa đến bến lúc "3 giờ" - ngĩa là 15 giờ ở đây chỉ thời gian vào bao nhiêu giờ ( thuyết phục có hiểu ko v)
tàu hỏa vừa hoàn thành cuộc hành trình mất "3 giờ"- 3 giờ ở đây lại khác khá là hoàn toàn nhĩa là tàu hỏa đi hoàn thành cuộc chơi TRONG 3 GIỜ CHỨ KO PHẢI VÀO 3 GIỜ NHÉ
tối mình sẽ gửi qua cho bạn, à các bạn đã học bài toán này chưa :
Chứng tỏ : 8 mũ 8 - 2 mũ 15 : 28
bằng bao nhiêu vậy bạn gửi mình cách làm với nhanh lên nhé
Chuyện về chú Cò độc thân
Hôm nọ, tôi đi ngang qua cánh đồng lúa, gió thổi nhè nhẹ đưa từng cơn gió thổi vi vu vào tai tôi. Thấy tiếng la, tôi giật mình, phía sau tôi là một chú Cò trắng lén lút hù dọa mọi người. Chú Cò nổi tiếng là hù dọa ở xóm của chúng tôi. Bé Trâu đến than thở với chú Cò rằng: " Chú à, thấy người khác khổ sở thế này mà sao ngày nào chú cũng hù dọa người khác thế. Như cháu, lúc nào cũng cày ruộng, cuốc đất, bị đánh, đập như thế chỉ vì đồng ruộng xanh tốt là đền ơn chủ rồi, còn chú thì sao?". Nghe bé Trâu nói thế, chú Cò tức lắm, chửi:" Chú làm gì kệ chú đi, lo làm việc của cháu ấy, xía vào chuyện người khác làm gì hả?". Nghe thế, bé Trâu khóc, đi làm việc. Chú Cò đã làm một việc hết sức vô tâm với bé Trâu, cứ vênh mặt lên như không có chuyện gì xảy ra cả, còn tôi, một chú chó luôn chăm chỉ làm việc giữ nhà, giữ cửa. Đối với chú Cò thì chẳng làm gì cả, suốt ngày cứ chọc ghẹo người khác không cho người khác làm việc. Một hôm, bác Quạ đến thăm nhà tôi, biếu quà, tôi nhìn ra bên ngoài, thấy bé Trâu núp núp ngoài cửa, thấy vậy, tôi liền mời bé Trâu vào nhà, bé Trâu vào, nói năng rất lễ phép: " Em chào anh, con chào bác Quạ ạ!", tôi vui lắm, mời bé Trâu ngồi. Bác Quạ than thở với tôi và bé Trâu rằng: " Thấy thằng Cò chẳng ra tích sự gì cả, sống độc thân ngày 2 ngày 3 mà chẳng thay đổi tẹo nào, thích chọc phá người khác nữa chứ, hài...........". Tôi nói: " Bác Quạ, bé Trâu à, hay là chúng ta kêu gọi các người dân trong làng lập kế hoạch để làm cho chú Cò này tỉnh lại nhé, cả hai đồng ý, làm ngay. Tôi mời chú Cò vào nhà tôi ăn cơm, khi chú Cò vừa ngồi xuống, bé Trâu đẩy ghế ra cho chú Cò té, thấy vậy, chú Cò xấu hổ, quát:" Làm cái gì thế hả, ranh con?". Bác Quạ dọn ra một đĩa canh, do mỏ Cò dài nên Cò không ăn được gì, cả bọn chén sạch hết thức ăn, thấy thế, Cò biết ý định kế hoạch trả đũa mình, chú Cò hối hận, nói:" Tôi xin lỗi, tôi biết mọi người ghét tôi vì tôi hay chọc phá người khác, không cho ai làm việc, tôi sống độc thân, không có ai chơi nên tôi phải làm như vậy, mong mọi người bỏ qua cho", trước lời xin lỗi của chú Cò, cả bọn rơi nước mắt, đồng ý bỏ qua. Từ đó, dân làng tìm việc cho chú Cò, hứa không gây náo loạn cho mọi người và sống chan hòa với mọi người, Cò vui vẻ làm việc cùng dân làng.
Hãy kể lại câu chuyện Con Rồng Cháu Tiên theo lời kể của em.
Ngày xưa ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, sức khoẻ vô địch và có nhiều phép lạ. Thần thường sống dưới nước, thỉnh thoảng lên cạn diệt trừ yêu quái giúp dân và dạy dân chăn nuôi trồng trọt…
Bấy giờ ở vùng núi cao phương Bắc có nàng Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông. Biết vùng Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng đến thăm. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân. Họ yêu nhau, kết duyên đôi lứa, sống tại cung điện Long Trang trên cạn.
Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Kì lạ làm sao, đến kì sinh nở, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, sau trăm trứng đó nở thành trăm người con trai đẹp đẽ lạ thường. Đàn con không cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi, sức khoẻ như thần. Âu Cơ và Lạc Long Quân mừng vui khôn xiết.
Nhưng Lạc Long Quân vốn quen sống dưới nước. Một hôm, chàng đành từ biệt vợ con trở về thuỷ cung. Âu Cơ một mình vò võ nuôi con trong chờ mong buồn tủi. Một hôm, nàng gọi chồng lên than thở:
- Sao chàng lại bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?
Lạc Long Quân ngậm ngùi:
- Ta thuộc nòi rồng, quen sống dưới vùng nước thẳm, nàng là tiên nữ, quen sống chốn non cao. Kẻ trên cạn, người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở với nhau lâu dài được. Nay ta đem năm mươi người con xuống biển, nàng đem năm mươi người con lên núi, chia nhau cai quản đất đai, khi có việc cần thì giúp đỡ nhau.
Âu Cơ mang năm mươi người con lên rừng. Người con trưởng của Âu Cơ lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Triều đình có đủ tướng văn tướng võ. Con trai được gọi là Lang, con gái gọi là Mị Nương. Khi cha chết, ngôi báu được truyền cho con trưởng. Cứ thế, mười mấy đời vua Hùng đã thay nhau trị vì đất nước, không hể thay đổi hiệu Hùng Vương.
Kể từ đó, dân Việt Nam, con cháu các vua Hùng, đều tự coi mình là con Rồng, cháu Tiên.
Đấy là truyền thuyết giải thích nguồn gốc của dân tộc ta. Truyền thuyết cũng cho ta hiểu rõ hơn hai tiếng thiêng liêng "đồng bào" (cùng trong một bọc). Chúng ta tự hào hơn về nòi giống Tiên Rồng của mình. Tự hào hơn về tình đoàn kết của các dân tộc anh em trên đất Việt.
Ngày xưa ở vùng đất Lạc Việt có một vị thần thuộc nòi rồng con trai của thần Long Nữ tên là Lạc Long Quân lên bờ thần giúp dân diệt trừ yêu tinh giúp dân cách trồng trọt xong việc thần về thăm mẹ.
Trên núi cũng có một nàng vô cùng xinh đẹp còn gái họ Nông tên là Âu Cơ tình cờ hai người người gặp nhau kết duyên thành vợ chồng ở Vân Trang.Âu Cơ sinh được một bọc trăm trứng rồi sinh ra một trăm đứa con hồng hào ko bú mớm nhưng vẫn lớn nhanh như thổi.
Một hôm chàng nhớ mẹ nên về thủy cũng bỏ mẹ con Âu Cơ ở lại Âu Cơ mong chờ chẳng thấy chồng về nên Âu Cơ nói:"Sao chàng nỡ bỏ mẹ con thiếp mà đi"Lạc Long Quân bơi lên bờ nói:"Chúng ta tính tình tập quán khác nhau người dưới nước,kẻ ở núi chẳng sâu lâu được nạy ta 50 con xuống biển nàng đem 50 con lên núi có gì khó khăn cùng nhau giúp đỡ"
Thế là Lạc Long Quân đem 50 đứa con xuống biển, con trai trưởng lên ngôi vua đặt tên là Hùng Vương đạtr tên nước là Văn Lang cứ như vậy các đứa con đều đặt tên là Hùng Vương
Trong những truyện thần thoại mà cô giáo đã kể cho chúng em nghe, em thích nhất truyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh. Truyện phản ánh cách giải thích các hiện tượng thiên nhiên như mưa, gió, lũ lụt và quá trình đấu tranh chống thiên tai của tổ tiên ta thuở trước. Truyện kể rằng:
Ngày xửa ngày xưa, Hùng Vương thứ 18 chỉ sinh được một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Nhà vua muốn chọn cho con gái một người chồng tài giỏi nên ban lệnh kén rể hiền.
Hàng trăm chàng trai đến kinh đô xin ra mắt nhưng công chúa vẫn chưa chọn được ai. Một hôm, có hai người dung mạo khác thường cùng đến cầu xin. Một người là Sơn Tinh, chúa của miền núi cao; một người là Thuỷ Tinh chúa của vùng nước thẳm.
Nhà vua băn khoăn không biết chọn ai làm rể, bèn yêu cầu hai người thi tài trước toàn thể triều đình. Sơn Tinh có tài dời non, chuyển núi. Chàng chỉ tay về hướng Đông, hướng Đông xuất hiện những cánh đồng thẳng cánh cò bay, chỉ tay về hướng Tây, hướng Tây mọc lên những dãy núi đồi trùng điệp. Thuỷ Tinh tài ba không kém. Chàng trổ tài hô mưa gọi gió, trong chớp mắt tạo nên sông, nên biển. Cả hai quyết tranh phần thắng.
Thấy cuộc thi tài kéo dài mà không phân thắng bại, Hùng Vương khó xử vô cùng, đành ra điều kiện:
- Ngày mai, ai đem lễ vật tới trước, ta sẽ gả công chúa cho. Lễ vật phải có đủ: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Sáng hôm sau, lúc trời còn mờ sương, Sơn Tinh đã đến với đầy đủ lễ vật quý giá. Vua Hùng rất hài lòng, cho phép Sơn Tinh cưới Mị Nương và rước nàng về núi Tản Viên.
Thuỷ Tinh đến sau, đùng đùng nổi giận, quyết đuổi theo giành lại Mị Nương.
Chàng hoá phép làm cho trời đất tối tăm, mưa to, gió lớn, sấm chớp đùng đùng, nước sông dâng lên cuồn cuộn. Thuồng luồng, ba ba, binh tôm, tướng cá hùng hổ tiến đánh Sơn Tinh. Quân Thuỷ Tinh đi tới đâu gây thiệt hại ghê gớm tới đó. Nhà đổ, cây gãy, ruộng đồng chìm ngập trong biển nước mênh mông.
Sơn Tinh bình tĩnh chỉ huy quân lính chống trả. Chàng nâng núi lên cao. Nước dâng đến đâu, núi cao hơn tới đó. Từng dãy đồi mọc lên san sát bên nhau, tạo thành bức trường thành khổng lồ ngăn nước lũ. Quân Sơn Tinh hăng hái nhổ cây, lăn đá, tiêu diệt quân của Thuỷ Tinh. Cuộc chiến kéo dài ròng rã suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, Thuỷ Tinh thua trận, phải rút quân về.
Nhưng Thuỷ Tinh không quên mối thù xưa. Hằng năm, cứ đến cuối mùa hè là Thuỷ Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, hòng giành lại Mị Nương.
Truyện thần thoại Sơn Tinh - Thuỷ Tinh cho thấy tổ tiên ta từ mấy ngàn năm trước đã có khát vọng chinh phục và chiến thắng thiên tai. Giải thích nạn lụt lội hàng năm bằng những hình ảnh, chi tiết thần kì vô cùng hấp dẫn, điều đó chứng tỏ trí tưởng tượng của người xưa quả là phong phú.
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ, có anh thanh niên nghèo khổ tên là Khoai. Mồ côi cha mẹ, anh phải đi làm thuê cho một lão phú hộ trong vùng.
Biết tính anh thật thà, chất phác, lão phú hộ rắp tâm lừa gạt để bóc lột sức lao động của anh. Một hôm, lão giả bộ chân tình, vỗ vai anh bảo:
- Thấy mày hiền lành, chăm chỉ, tao thương lắm ! Mày cố làm việc cho tao sẽ gả con gái cho!
Nghe lão nói thế, anh Khoai mừng lắm. Ngày này qua ngày khác, anh làm việc quần quật không tiếc sức, bất kể nắng mưa, khuya sớm. Lão phú hộ đắc ý, cười thầm trong bụng.
Cô con gái lão càng lớn càng xinh. Lão nghĩ bụng: “Con gái ta phải gả cho nhà giàu mới xứng. Đời nào ta lại để nó làm vợ cái thằng khố rách áo ôm kia!”. Thế rồi, lão âm thầm nhận lời gả cô cho con trai một trọc phú làng bên. Anh Khoai vẫn cần cù làm việc và không hề hay biết về âm mưu xấu xa của lão.
Ngày cưới đã đến. Lão phú hộ chuẩn bị tiệc tùng linh đình. Sợ lộ chuyên, lão gọi anh Khoai đến, ngon ngọt nói rằng:
- Ta giữ đúng lời hứa với anh. Hôm nay, ngày lành tháng tốt, ta cho làm đám cưới. Cỗ bàn ta đã chuẩn bị cả rồi. Có điều, anh cũng phải kiếm chút gì làm sính lễ chứ! Anh hãy vào rừng, tìm một cây tre trăm đốt, mang về đây để vót đũa cưới. Hãy đi nhanh lên cho kịp!
Được lời như cởi tấm lòng, anh Khoai hăm hở vác dao vào rừng. Anh tìm mãi, tìm mãi mà không thấy có cây tre nào có đủ trăm đốt. Trời đã quá trưa, tủi thân, anh ngồi thụp xuống đất, ôm mặt khóc hu hu. Bỗng nhiên, một tiếng nói ấm áp vang lên bên tai anh:
- Tại sao cháu khóc? Cháu hãy nói cho ta nghe, để ta nghĩ xem có cách nào giúp cháu chăng?
Anh Khoai bàng hoàng ngẩng đầu lên nhìn. Trước mặt anh là ông Bụt đang mỉm cười nhân hậu. Anh kể hết sự tình cho Bụt nghe. Bụt dạy:
- Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre đem tới đây cho ta!
Chỉ loáng sau, công việc đã xong. Anh Khoai mừng rỡ đặt một trăm đốt tre trước mặt Bụt. Bụt lại dạy:
- Con hãy xếp chúng nối tiếp với nhau!
Anh Khoai làm theo lời Bụt. Bụt vỗ tay ba cái và đọc câu thần chú:
- Khắc nhập! Khắc nhập! Khắc nhập!
Tức thì, trăm đốt tre dính liền với nhau thành cây tre trăm đốt trước con mắt ngạc nhiên, thích thú của anh Khoai. Anh vui sướng cảm tạ Bụt rồi định vác về nhà nhưng cây tre dài quá, không cách nào đem ra khỏi rừng được. Anh đang loay hoay, bối rối thì Bụt bảo:
- Con hãy đặt nó xuống rồi đọc câu thần chú : Khắc xuất! Khắc xuất! Khắc xuất!
Trong nháy mắt, một trăm đốt tre tách rời ra như cũ. Anh Khoai vòng tay tạ ơn Bụt rồi bó thành hai bó, vội vã gánh về nhà.
Tiệc cưới đang linh đình, thấy anh Khoai về, lão phú hộ chạy ra quát mắng phủ đầu:
- Tao bảo mày đi tìm cho tao cây tre trăm đốt chứ tao có bảo mày chặt một trăm đốt tre đâu! Mau mau cút khỏi đây ngay!
Biết mình đã bị lão lừa, anh Khoai giận lắm. Anh lẳng lặng xếp một trăm đốt tre nối với nhau trên mặt sân rồi hô lớn:
- Khắc nhập! Khắc nhập! Khắc nhập!
Ngay lập tức, trăm đốt tre dính liền thành cây tre trăm đốt thẳng băng. Thấy vậy, lão phú hộ tò mò đến gần xem. Anh Khoai đọc câu thần chú trên, lập tức lão bị dính vào cây tre. Lão hoảng sợ kêu cứu vang trời. Lão thông gia cùng gã con rể nhào vào kéo giúp cũng bị dính luôn. Mọi người hốt hoảng gỡ ba người ra nhưng vô hiệu. Họ bị dính chặt với nhau thành một đoàn rồng rắn trông thật tức cười.
Lão phú hộ khóc lóc, van xin anh Khoai tha chết và tuyên bố gả con gái cho anh. Lúc bấy giờ, anh Khoai mới thong thả đọc:
- Khắc xuất! Khắc xuất! Khắc xuất!
Cây tre lại rời ra thành trăm đốt như cũ. Mọi người thoát nạn vội tản về nhà. Thế là anh Khoai cưới được vợ đẹp. Còn lão phú hộ thì bị anh cho một bài học nhớ đời.
Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em nói: “ở hiền gặp lành, ở ác báo ác. Con người sống phải nhân hậu, trung thực. Câu chuyện bà kể cho cháu nghe vừa là đạo lí, vừa là ước mơ ngàn đời của người lao động đấy, cháu ạ!”.