K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Từ phức

Từ phức ít nhất từ 2 hoặc nhiều hơn 2 từ tạo thành. Khi chia tách từ phức, tức là mỗi từ đứng lẻ chúng có nghĩa hoặc không có nghĩa. Từ phức tiếp tục chia ra làm 2 loại khác nhau là từ ghép và từ láy.

Trả lời :

Từ gồm hai hay nhiều tiếng gọi là từ phức.

VD: thiết tha, giúp đỡ, học hành, thông minh.....

Hok_Tốt

#Thiên_Hy

======

12 tháng 9 2021

a – Khái niệm 

Từ ghép là từ được tạo thành bởi hai từ đơn trở lên và điều kiện là những tiếng tạo nên từ ghép phải có nghĩa cụ thể, có nghĩa là mỗi từ đơn khi đứng một mình đều có ý nghĩa. Thường từ ghép thường có số lượng là hai từ đơn, nhiều trường hợp đặc biệt có thể tồn tại từ ghép từ 3 từ.

b – Ví dụ từ ghép 

Ví dụ 1: Quần áo là từ ghép được tạo thành bởi 2 từ đơn là “ quần ” và “ áo “, ta thấy 2 từ đơn là quần và áo khi đứng riêng 1 mình đều có nghĩa. 

Ví dụ 2: Người lớn là 1 từ ghép được cấu tạo bằng 2 từ đơn là “ người “, “ lớn “. Từ “ người “ có nghĩa là con người, “ lớn “ có nghĩa là cái gì đó lớn. 

Ví dụ 3: Từ ghép “ Tủ Sách “ được tạo bởi 2 từ đơn là “ tủ”. “ sách “ đều là 2 từ có ý nghĩa cụ thể, rõ ràng.

Phân loại từ ghép

Từ ghép được chia thành 3 loại chính là từ ghép chính phụ, từ ghép đẳng lập và từ ghép tổng hợp. 

Từ ghép chính phụ 

a – Khái niệm từ ghép chính phụ là gì?

Là loại từ ghép được tạo bởi 2 từ đơn trong đó có 1 tiếng chính và một tiếng phụ. Tiếng chính đứng trước có ý nghĩa bao quát, tiếng phụ đứng sau để làm rõ nghĩa cho tiếng chính và phụ thuộc vào tiếng chính.

Không có tiếng chính thì tiếng phụ sẽ không có ý nghĩa rõ ràng. Không thể đảo vị trí tiếng chính và tiếng phụ với nhau vì nghĩa của từ ghép sẽ thay đổi. Từ ghép đẳng lập còn được gọi là từ ghép phân loại.

b – Ví dụ từ ghép chính phụ

Ví dụ 1: Xe tăng là từ ghép chính phụ trong đó tiếng chính là từ “ Xe”, tiếng phụ là từ “ tăng”

Ví dụ 2: Từ “Ông ngoại” trong đó tiếng chính là từ “ ông “, tiếng phụ là từ “ ngoại”.

Ví dụ 3: Các từ ghép chính phụ khác như: Xe tải, thơm ngát, Xe tải, tàu ngầm, tàu điện, bạn bè, bà nội, bà ngoại, cây xoài, cây bưởi, cây tre, bút chì, bút mực, bình nước, hoa hồng, hoa mai, con gà, con heo…

12 tháng 9 2021

Từ ghép là cấu thành bởi 2 từ ko có nghĩa

có 2 loại:

từ ghét đẳng lập

từ ghép chính phụ

15 tháng 5 2018

Từ láy là từ tạo nên từ hơn hai tiếng, tiếng đứng ở vị trí đầu tiên là tiếng gốc (thường thì tiếng gốc có nghĩa) và tiếng đứng sau láy lại âm hoặc vần của tiếng gốc. Từ láy cũng có hai loại: láy hoàn tòan (lặp lại cả âm lẫn vần của tiếng gốc: đo đỏ, xanh xanh, rầm rập, ...) và láy bộ phận (chỉ lặp lại hoặc âm hoặc vần của tiếng gốc: xanh xao, rì rào, mảnh khảnh, le te, ...)

Từ ghép là từ có hơn hai tiếng (xét về cấu tạo) và các tiếng tạo nên từ ghép đều có nghĩa (xét về nghĩa). Từ ghép có hai loại: ghép chính phụ và ghép đẳng lập
1. Trong từ ghép chính phụ, tiếng đứng ở vị trí đầu tiên gọi là tiếng chính, tiếng đứng sau gọi là tiếng phụ. Từ một tiếng chính ta có thể tạo nên vô số từ ghép.
VD: vói tiếng chính là "Cá" ta có thể tạo ra vô số từ ghép: cá rô, cá lóc, cá lòng tong, cá mòi, cá sấu, ...
2. trong từ ghép đẳng lập các tiếng ngang nhau về nghĩa: áo quần, thầy cô, anh em, ...

Từ đơn là từ được cấu tạo bởi chỉ một tiếng. 
 Từ phức là từ được cấu tạo từ hai tiếng trở lên

5 tháng 1

Phức tạp ⇒ Đơn giản.

5 tháng 1

Từ trái nghĩa của phức tạp là đơn giản nhé

tick cho mình với

7 tháng 4 2019

Cuộc sống không giống như cuốn truyện đọc phần đầu đã biết phần cuối ,cuộc sống phức tạp và thú vị hơn nhiều.Chúng giống những nốt nhạc lướt trên phím đàn có nốt thăng, nốt trầm và hạnh phúc chính là một nốt nhạc hay, bay bổng hay một gam màu sáng trong bức tranh tổng thể của bản nhạc định mệnh cuộc đời. Vậy hạnh phúc là gì ?Có lẽ mỗi người đều tự đặt trong đầu câu hỏi như vậy và mỗi người cũng đều có quan niệm riêng về hạnh phúc.Nhưng chúng ta đều biết rằng hạnh phúc là biểu thị thái độ sung sướng về một điều gì đó trong cuộc sống làm ta thấy thỏa mãn.Vậy hạnh phúc là vô hình hay hữu hình mà con người ta vẫn luôn mỏi mệt tìm kiếm để đạt được nó?Mỗi người một đáp án nhưng đối với nhiều người hạnh phúc đôi khi bắt nguồn từ những thứ đơn giản nhất khi mỗi sớm mai thức dậy thấy mình còn sống trên cuộc đời.Hạnh phúc đôi khi không phải tìm kiếm đâu xa xôi ,nó vẫn ở ngay trước mắt chúng ta đấy thôi, hạnh phúc khi có cả cha lẫn mẹ, cả nhà cùng nhau quây quần ấm áp bên mâm cơm ,….Nhưng hạnh phúc không chỉ là nụ cười ,niềm vui mà hạnh phúc còn có cả trong nước mắt.Đó là những giọt nước mắt vỡ òa trong hạnh phúc của người mẹ khi thấy đứa con sinh ra được lành lặn ,khỏe mạnh , cảm động khi đứa con của mình tự làm quà tặng mình dịp sinh nhật ,…Nói về hạnh phúc thì nhiều vô kể nhưng làm thế nào để có thể đạt được thì đấy là câu hỏi mà ta vẫn luôn quanh quẩn tìm lời giải đáp Hạnh phúc không phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, thái độ tinh thần của chúng ta điều khiển nó.Đúng vậy chính bạn là người nắm giữ chìa khóa đi đến hạnh phúc chứ không phải ai khác.Nhưng chướng ngại cản trở hạnh phúc là mơ ước về một hạnh phúc quá to lớn.Hạnh phúc không đi liền với sự ích kỉ của cá nhân ,bạn sẽ không bao giờ tìm thấy nếu chỉ biết đi tìm hạnh phúc cho chính bạn.Hạnh phúc đích thực là được sống vì người khác.Vì vậy hãy chia sẻ niềm vui của mình cho người khác ,bởi vì nỗi buồn khi san sẻ sẽ vơi bớt 1 nửa ,còn hạnh phúc sẽ nhân đôi.Thế nhưng sợi chỉ ranh giới giữa hạnh phúc và tự phụ rất mong manh ,đôi khi quá đắm chìm trong hạnh phúc , ta vội quên mất những vẫn đề thực tế diễn ra xung quanh.Có đôi khi ta vô tình không nhận thấy những giá trị đích thực của hạnh phúc, lại mải miết tìm kiếm những điều xa xôi.Bởi thế hãy tập trân trọng những gì ta đang có - những hạnh phúc giản dị nhưng nếu mất đi sẽ mãi chẳng thể lấy lại được. Vì vậy chúng ta phải dừng lại đúng lúc phải biết biến hạnh phúc thành động lực giúp ta sống có mục đích ,lạc quan hơn.Bởi lẽ tôi tin chắc rằng thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.

Dài vậy cơ ak? Mk vít ngắn gọn thôi

Tôi không biết đối với bạn hạnh phúc là gì, còn với tôi hạnh phúc chính là sau một ngày đi học sôi động ở trường cùng với bạn bè thân yêu cùng thầy cô- những người dẫn dắt tôi nên người, khi về đến nhà được nhìn thấy mẹ tôi đạng lúi húi nấu cơm trong bếp, tôi sẽ ngay lập tức chạy vào phụ mẹ, giúp mẹ lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, cùng mẹ ăn một bữa cơm đạm bạc. Bố tôi mất sớm. Nhà tôi có mỗi ba mẹ con nương tựa lẫn nhau, bởi thế nên đối với tôi được mẹ yêu thương, chăm sóc là điều hạnh phúc nhất trên đời. Mệ chính là điều hạnh phúc nhất trong đời tôi.

17 tháng 6 2021

Làm gì thấy chữ phức tạp nào đâu

làm j có chữ phuc tap trong câu đâu

24 tháng 8 2018

10 từ lái là 10 từ gì

sai rồi nha tứ láy nha 

Cấu tạo từ:            Từ phức                  Từ láy

         Từ đơn             Từ ghép        T.G.P.L              Láy âm đầu

                                 T.G.T.H                                   Láy vần

                                                                                  

                                                                                  Láy âm và vần

                                                                                  Láy tiếng

          a) Tiếng là đơn vị cấu tạo nên từ. Tiếng có thể có nghĩa rõ ràng hoặc có nghĩa không rõ ràng.

          VD : Đất đai (Tiếng đai đã mờ nghĩa )

                   Sạch sành sanh (Tiếng sành, sanh trong không có nghĩa )

          b) Từ là đơn vị nhỏ nhất dùng có nghĩa dùng để đặt câu. Từ có 2 loại :

- Từ do 1 tiếng có nghĩa tạo thành gọi là từ đơn.

- Từ do 2 hoặc nhiều tiếng ghép lại tạo thành nghĩa chung gọi là từ phức. Mỗi tiếng trong từ phức có thể có nghĩa rõ ràng hoặc không rõ ràng.

c) Cách phân định ranh giới từ:

          Để tách câu thành từng từ, ta phải chia câu thành từng phần có nghĩa sao cho được nhiều phần nhất (chia cho đến phần nhỏ nhất).Vì nếu chia câu thành từng phần có nghĩa nhưng chưa phải là nhỏ nhất thì phần đó có thể là 1 cụm từ chứ chưa phải là 1 từ.

           Dựa vào tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ, ta có thể xác định được 1 tổ hợp nào đó là 1 từ (từ phức) hay 2 từ đơn bằng cách xem xét tổ hợp ấy về 2 mặt: kết cấu và nghĩa.

Cách 1 : Dùng thao tác chêm, xen: Nếu quan hệ giữa các tiếng trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm, xen 1 tiếng khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp về cơ bản vẫn không thay đổi thì tổ hợp ấy là 2 từ đơn.

          VDtung cánh             Tung đôi cánh

               lướt nhanh            Lướt rất nhanh

(Hai tổ hợp trên đã chêm thêm tiếng đôi , rất nhưng nghĩa các từ này về cơ bản không thay đổi, do đó tung cánh và lướt nhanh là kết hợp 2 từ đơn).

 Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa các tiếng trong tổ hợp mà chặt chẽ, khó có thể tách rời và đã tạo thành một khối vững chắc, mang tính cố định (không thể chêm, xen) thì tổ hợp ấy là 1 từ phức.

          VDchuồn chuồn nước           chuồn chuồn sống ở nước

                  mặt hồ              mặt của hồ

(Khi ta chêm thêm tiếng sống và của vào, cấu trúc và nghĩa của 2 tổ hợp trên đã bị phá vỡ, do đó chuồn chuồn nước và mặt hồ là kết hợp 1 từ phức)

Cách 2 : Xét xem trong kết hợp có yếu tố nào đã chuyển nghĩa hay mờ nghĩa gốc hay không.

          VDbánh dày (tên 1 loại bánh); áo dài (tên 1 loại áo) đều là các kết hợp của 1 từ đơn vì các yếu tố dàydài đã mờ nghĩa, chỉ còn là tên gọi của 1 loại bánh, 1 loại áo, chúng kết hợp chặt chẽ với các tiếng đứng trước nó để tạo thành 1 từ.

Cách 3 : Xét xem tổ hợp ấy có nằm trong thế đối lập không, nếu có thì đấy là kết hợp củ 2 từ đơn.

       VD : có xoè ra chứ không có xoè vào

                có rủ xuống chứ không có rủ lên     xoè ra, rủ xuống là 1 từ phức

              

                ngược với chạy đi là chạy lại

                ngược với bò vào là bò ra            chạy đi, bò ra là những kết hợp của 2 từ đơn.

* Chú ý :

+ Khả năng dùng 1 yếu tố thay cho cả tổ hợp cũng là cách để chúng ta xác định tư cách từ.

          VD:  cánh én       ( chỉ con chim én )

                   tay người   ( chỉ con người )

+ Có những tổ hợp mang tính chất trung gian, nghĩa của nó mang đặc điểm của cả 2 loại (từ phức và 2 từ đơn). Trong trường hợp này, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ta có kết luận nó thuộc loại nào.

 

2. Cách phận biệt từ ghép và từ láyc:

* Có 2 cách chính để tạo từ phức:

- Cách 1 : ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là các từ ghép .

- Cách 2: Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là các từ láy.

a) Từ ghép: Là từ do 2 hoặc nhiều tiếng có nghĩa ghép lại tạo thành nghĩa chung.

          T.G được chia thành 2 kiểu :

         - T.G có nghĩa tổng hợp (T.G hợp nghĩa, T.G đẳng lập, T.G song song ): Là từ ghép mà nghĩa của nó biểu thị những loại rộng hơn, lớn hơn, khái quát hơn so với nghĩa các tiếng trong từ.

-T.G có nghĩa phân loại (T.G phân loại, T.G chính phụ ): Thường gồm có 2 tiếng, trong đó có 1 tiếng chỉ loại lớn và 1 tiếng có tác dụng chia loại lớn đó thành loại nhỏ hơn.

Lưu ý :

+Các tiếng trong từ ghép tổng hợp thường cùng thuộc một loại nghĩa ( cùng danh từ, cùng động từ,...)

+ Các từ như : chèo bẻo, bù nhìn, bồ kết, ễnh ương, mồ hôi, bồ hóng,..., axit, càphê , ôtô, môtô, rađiô,...có thể cho là từ ghép (theo định nghĩa) hoặc từ đơn (tuy có 2 tiếng trở lên nhưng các tiếng đó phải gộp lại mới có nghĩa, còn từng tiếng tách rời thì không có nghĩa . Những trường hợp này lên bậc THCS gọi là từ đơn đa âm ).

 

b) Từ láy(T.L): Là từ gồm 2 hay nhiều tiếng láy nhau. Các tiếng láy có thể có 1 phần hay toàn bộ âm thanh được lặp lại.

( * Xem thêm :

Căn cứ vào bộ phận được lặp lại, người ta chia từ láy thành 4 kiểu : Láy tiếng, láy vần, láy âm, láy cả âm và vần . Căn cứ vào số lượng tiếng được lặp lại, người ta chia thành 3 dạng từ láy : láy đôi, láy ba,láy tư,...)

*Từ tượng thanh : Là từ láy mô phỏng, gợi tả âm thanh trong thực tế : Mô phỏng tiếng người, tiếng của loài vật, tiếng động,...

         VD : rì rào, thì thầm, ào ào,...

* Từ tượng hình : Là từ láy gợi tả hình ảnh, hình dáng của người, vật  ; gợi tả màu sắc, mùi vị.

VD:   Gợi dáng dấp : lênh khênh, lè tè, tập tễnh, ...

                     Gợi tả màu sắc : chon chót, sặc sỡ, lấp lánh,...

                     Gợi tả mùi vị : thoang thoảng, nồng nàn ,ngào ngạt,...

Lưu ý :

   + Một số từ vừa có nghĩa tượng hình, vừa có nghĩa tượng thanh, tuỳ vào văn cảnh mà ta xếp chúng vào nhóm nào.

V.D : làm ào ào (ào ào là từ tượng hình), thối ào ào (ào ào là từ tượng thanh).

        + Trong thực tế, vẫn tồn tại những từ tượng thanh và tượng hình không phải là từ láy (ở phạm vi tiểu học không đề cập tới các từ này ).

VD : bốp ( tiếng tát ), bộp ( tiếng mưa rơi ), hoắm (chỉ độ sâu ), vút ( chỉ độ cao )....

*Nghĩa của  từ láy : Rất phong phú, cũng như từ ghép, chúng có cả nghĩa khái quát, tổng hợp và nghĩa phân loại.

VD : làm lụng , máy móc, chim chóc, ...( nghĩa tổng hợp ) ; nhỏ nhen, nhỏ nhắn, xấu xa, xấu xí,...( nghĩa phân loại ). Tuy nhiên, ở tiểu học thường đề cập đến  mấy dạng cơ bản sau :

         - Diễn tả sự giảm nhẹ của tính chất ( so với nghĩa của từ hay tiếng gốc).

VD :    đo đỏ            <         đỏ

                        Nhè nhẹ       <       nhẹ

-Diễn tả sự tăng lên, mạnh lên của tính chất:

VD :      cỏn con                >     con

                          sạch sành sanh    >    sạch

-Diễn tả sự lặp đi lặp lại các động tác, khiến cho từ láy có giá trị gợi hình cụ thể

VD : gật gật , rung rung, cười cười nói nói, ...

         - Diễn tả sự đứt đoạn, không liên tục nhưng tuần hoàn.

          VD : lấp ló, lập loè, bập bùng, nhấp nhô, phập phồng,...

         - diễn tả tính chất đạt đến mức độ chuẩn mực, không chê được.

          VD : nhỏ nhắn, xinh xắn, tươi tắn, ngay ngắn, vuông vắn ,tròn trặn,...

c) Cách phân biệt các từ ghép và từ láy dễ lẫn lộn :

- Nếu các tiếng trong từ có cả quan hệ về nghĩa và quan hệ về âm (âm thanh) thì ta xếp vào nhóm từ ghép.

 VD : thúng mủng, tươi tốt, đi đứng, mặt mũi, phẳng lặng, mơ mộng,...

- Nếu các từ chỉ còn 1 tiếng có nghĩa , còn 1 tiếng đã mất nghĩa nhưng 2 tiếng không có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ ghép.

VD : Xe cộ, tre pheo, gà qué, chợ búa,...

- Nếu các từ chỉ còn 1 tiếng có nghĩa, còn 1 tiếng đã mất nghĩa nhưng 2 tiếng có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ láy.

VD : chim chóc, đất đai, tuổi tác , thịt thà, cây cối, máy móc,...

Lưu ý : Những từ này nếu nhìn nhận dưới góc độ lịch đại ( tách riêng các hiện tượng ngôn ngữ, xét trong sự diễn biến, phát triển theo thời gian làm đối tượng nghiên cứu) và nhấn mạnh những đặc trưng ngữ nghĩa của chúng thì có thể coi đây là những từ ghép (T.G hợp nghĩa). Nhưng xét dưới góc độ đồng đại ( tách ra một trang thái, một giai đoạn trong sự phát triển của ngôn ngữ làm đối tượng nghiên cứu) và nhấn mạnh vào mối quan hệ ngữ âm giữa 2 tiếng, thì có thể coi đây là những từ láy có nghĩa khái quát (khi xếp cần có sự lí giải ). Tuy nhiên, ở tiểu học, nên xếp vào từ láy để dễ phân biệt. Song nếu H.S xếp vào từ ghép cũng chấp nhận.

- Các từ không xác định được hình vị gốc (tiếng gốc ) nhưng có quan hệ về âm thì đều xếp vào lớp từ láy.

VD : nhí nhảnh, bâng khuâng, dí dỏm, chôm chôm, thằn lằn, chích choè,...

- Các từ có một tiếng có nghĩa và 1 tiếng không có nghĩa nhưng các tiếngtrong từ được biểu hiện trên chữ viết không có phụ âm đầu thì cũng xếp vào nhóm từ láy ( láy vắng khuyết phụ âm đầu ).

VD : ồn ào, ầm ĩ, ấm áp, im ắng, ao ước ,yếu ớt,...

- Các từ có 1 tiếng có nghĩa và 1 tiếng không có nghĩa có phụ âm đầu được ghi bằng những con chữ khác nhau nhưng có cùng cách đọc ( c/k/q  ; ng/ngh ;g/gh ) cũng được xếp vào nhóm từ láy.

V.D : cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề,...

Lưu ý : trong thực tế , có nhiều từ ghép ( gốc Hán ) có hình tức ngữ âm giống từ láy, song  thực tế các tiếng đều có nghĩa nhưng H.S rất khó phân biệt, ta nên liệt kê ra một số từ cho H.S ghi nhớ ( VD : bình minh, cần mẫn, tham lam, bảo bối, ban bố, căn cơ, hoan hỉ, chuyên chính, chính chuyên, chân chất, chân chính, hảo hạng, khắc khổ, thành thực,....)

- Ngoài ra, những từ không có cả quan hệ về âm và về nghĩa (từ thuần Việt) như : tắc kè, bồ hóng, bồ kết, bù nhìn, ễnh ương, mồ hôi,... hay các từ vay mượn như : mì chính, cà phê, xà phòng, mít tinh,... chúng ta không nên đưa vào chương trình tiểu học ( H.S có hỏi thì giải thích đây là loại từ ghép đặc biệt, các em sẽ được học sau).

6 tháng 6 2018

Từ " phức tạp " :

Đồng nghĩa : rắc rối, khó hiểu...

Trái nghĩa : đơn giản, giản đơn...

Từ " vô dụng " :

Đồng nghĩa : vô bổ, vô ích, vô tích sự...

Trái nghĩa : có ích, hữu dụng, hữu ích...

6 tháng 6 2018

tươi-xỉn(tươi màu-xỉn màu)

3 tháng 1 2018

Công Nguyên tính từ năm Chúa Giê su Giáng sinh trước Công Nguyên là trước mốc thời gian đó sau Công nguyên là sau mốc thời gian ấy. T nha

3 tháng 1 2018

Công Nguyên, viết tắt CN, là kỉ nguyên bắt đầu bằng năm theo truyền thống được cho là năm sinh của Chúa Giêsu. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên (TCN) hay trước Tây lịch (TTL). Trong tiếng Việt đôi khi bắt gặp cách dùng sau Công Nguyên (hay viết tắt là SCN), tuy nhiên có lý do cho thấy cách dùng này có lẽ không hợp lý, và cách dùng đúng hơn là Công Nguyên, mặc dù tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam người ta vẫn dùng sau Công Nguyên.

Khái niệm Công Nguyên được tu sĩ Dionysius Exiguus đặt ra vào thế kỷ 6 khi ông tính lịch cho các ngày lễ Phục Sinh và được dùng với các lịch Julius và Gregory. Không có năm 0 trong các lịch này; năm 1 TCN được theo sau bằng năm 1 CN. Các nhà làm sử áp dụng thông lệ này vì nó được dùng lần đầu bởi tu sĩ Bede trong tác phẩm Historia Ecclesiasa Gentis Anglorum (Lịch sử giáo hội của người Anh, 731). Ông không dùng số 0, mặc dù ông đã biết số 0 vào lúc đó, vì việc đếm số cho năm bắt đầu từ 1 chứ không phải 0. Năm 0 trong lịch thiên văn là năm 1 TCN; các năm trước 0 được đánh số âm, như −1 = 2 TCN.

công nguyên là gì,TCN là gì,SCN là gì,TTL là gì,TCN,SCN,TTL,công nguyên,trước công nguyên,sau công nguyên,trước công nguyên là gì,sau công nguyên là gì,năm sinh chúa Giêsu,Before Christ,Trước Chúa Kitô
Dionysius Exiguus sáng chế ra năm Công Nguyên để tính ngày lễ Phục Sinh

Hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Dionysius đã tính sai, và rằng trên thực tế Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm 8 TCN tới năm 4 TCN. Dữ kiện muộn nhất liên quan đến sự giáng sinh của Chúa Kitô là cái chết của Herod Đại Đế vào năm 4 TCN.

Chữ tương đương với Công Nguyên trong tiếng Latinh là Anno Domini, viết tắt AD hay A.D., nghĩa là Năm của Chúa hay Kỉ nguyên Kitô. Nó được sử dụng phổ biến trong tiếng Anh, thường đặt trước số năm, ví dụ AD 128. Hiện nay còn có chữ viết tắt CE (Common Era) thay thế cho AD và được đặt sau số năm, ví dụ 128 CE, khi người dùng không muốn nó mang sắc thái tôn giáo liên quan đến Chúa Kitô. Hiếm hơn còn có E.V., viết tắt của Era Vulgaris trong tiếng Latin.

Trước Công Nguyên trong tiếng Anh là Before Christ (Trước Chúa Kitô), viết tắt BC, được đặt sau số năm, ví dụ 320 BC. Ngoài ra còn có cách viết khác không phổ biến lắm, khi người dùng không muốn nó mang sắc thái tôn giáo liên quan đến Chúa Kitô, là BCE (Before Common Era), nó cũng được đặt sau số năm, ví dụ 320 BCE.

Chữ Công Nguyên trong tiếng Việt xuất xứ từ tiếng Hoa 公元, viết tắt từ chữ Công Lịch Kỉ Nguyên (Hoa phồn thể: 公曆紀元; Hoa giản thể: 公历纪元) nghĩa là Kỉ nguyên dùng lịch chung, chứ không phải là Kỉ nguyên Công giáo như nhiều người thường hiểu lầm. Chữ Công trong Công lịch mang nghĩa Chung, còn được dùng với các từ chữ Hán khác như công thước (met), công lý (kilomet), công cân (kilogram).

20 tháng 4 2018

trạng ngữ là từ chỉ nguyên nhân , mục đíc , lí do , nơi chốn địa điểm . Thường là thành phần phụ trong câu , trả lời cho câu hỏi : Ở đâu ?  khi nào và baoo giờ

20 tháng 4 2018

trạng ngữ là thành phần phần phụ của câu có chức năng bổ ngữ cho câu