Bằng kiến thức lịch sử có chọn lọc, em hãy làm rõ những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930. Cống hiến nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
* Những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
- Hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930…
- Hoàn chỉnh chuyển hướng đấu tranh cho cách mạng Việt Nam qua việc triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 tháng 5 năm 1941…
- Chỉ đạo chuẩn bị lực lượng cho cách mạng…
- Chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945…
- Đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945…
* Cống hiến quan trọng nhất? Vì sao?
- Hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
- Giải thích:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo…, đề ra được đường lối đúng đắn cho cách mạng…
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi…
- Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
- Người đã chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta thông qua các sách báo như Người cùng khổ, Đường Cách Mệnh,..Thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ( 6/1925)- Với thiên tài và uy tín Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất ba tổ chức Cộng sản thành một chính Đảng duy nhất – Đảng Cộng Sản Việt Nam (6/1/1930)
- Đề ra đường lối cơ bản cho cách mạng Việt Nam, vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đó là Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
* Đối với cách mạng thế giới:
- Xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng ở chính quốc...
- Cỗ vũ phong trào đấu tranh chống áp bức của các nước thuộc địa.
- Làm phong phú thêm kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin
..1) Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại ra đi tìm con đường cứu nước mới ?
Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành,sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam đàn, Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ đảm đang, chăm lo chồng con hết mực…
Nguyễn Tất Thành từ rất sớm có trí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào…
Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,… nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Các phong trào đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử đó, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
2) Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 – 1930 :
a. Từ năm 1911 đến 1918 :
– Ngày 5/6/1911, Người lấy tên là Ba, xin làm việc phụ bếp trên tàu đô đốc Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Tháng 7/1911, Người cập cảng Mácxây của Pháp.
– Năm 1912, Người tiếp tục đi một số nước ở châu Âu, châu Phi và châu Mĩ…
– Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Tại đây, Người tích cực hoạt động tố cáo thực dân Pháp và tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam, tham gia vào phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hường Cách mạng Tháng Mười Nga Tư tưởng của Người dần dần biến đổi.
– Tháng 11/1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người.
b. Từ năm 1919 đến 1923 :
– Ngày 18/6/1919 các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Vécxai (Verseille) để chia nhau thị trường thế giới. Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị này Bản yêu sách gồm 8 điểm đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
– Tháng 7/1920, Người đọc Sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.
– Tháng 12/1920, tại đại hội của đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và lập ra đảng Cộng sản Pháp. Sau đó Người đã tham gia đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin và đi theo cách mạng vô sản Sự kiện đó cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
– Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. – Năm 1922, ra báo Người Cùng Khổ (Le Paria)..
c. Từ năm 1923 đến 1924 :
– Tháng 6/1923, Người đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế cộng sản viết nhiều cho báo Sự Thật (Paravda) và Tạp chí Thư tín quốc tế.
– Năm 1924, Người dự và đọc tham luận tại đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V. Sau đó, Người từ Liên Xô về Quảng Châu để trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam.
d. Từ năm 1924 đến 1930 :
– Ngày 11/11/1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp tuyên truyền, giáo dục lý luận, xây dựng tổ chức cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
– Tháng 6/1925 : Thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp.
– Ngày 9/7/1925, Người và một số nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêxia lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á đông.
– Ngày 6/1 đến ngày 3/2/1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản cộng sản, soạn thảo Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của đảng Cộng sản Việt Nam… Tác dụng của những hoạt động trên đối với cách mạng Việt Nam :
* Về chính trị : Trong giai đoạn này, những hoạt động của Người chủ yếu trên mặt trận chính trị tư tưởng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta nư viết bài cho báo “Nhân đạo”, “đời sống công nhân” và “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Những tư tưởng mà người truyền bá sẽ là nền tảng tư tưởng của đảng ta sau này. Những tư tưởng đó là:
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa.
Chỉ có làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thì mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa. đó chính là mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là đảng cộng sản được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin. * Về tổ chức :
– Khi về tới Quảng Châu (Trung Quốc), người đã tập hợp một số thanh niên Việt Nam yêu nước thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là tổ chức tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong đó có hạt nhân là Cộng sản đoàn.
Tóm lại, những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. 3) Những cống hiến to lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc :
Tìm được con đường cứu nước đúng đắn : Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản.
Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ cho việc thành lập đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Cùng đảng Cộng sản đông Dương lãnh đạo Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
Cùng đảng Cộng sản đông Dương lãnh đạo đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng chế độ mới trong những năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám.
Cùng đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) thắng lợi.
Cùng đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc…
3) CỐng hiến của NGuyễn Ái Quốc
+ Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam : đó là con đường Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản.
+ Nhờ tìm được con đường cứu nước đúng đắn như đã nêu trên, nên mới dẫn tới việc thành lập đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ thắng lợi.
1) Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại ra đi tìm con đường cứu nước mới ?
Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành,sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ đảm đang, chăm lo chồng con hết mực…
Nguyễn Tất Thành từ rất sớm có trí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào…
Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Các phong trào Đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử đó, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
2) Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 – 1930 :
a. Từ năm 1911 đến 1918 :
- Ngày 5/6/1911, Người lấy tên là Ba, xin làm việc phụ bếp trên tàu đô đốc Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Tháng 7/1911, Người cập cảng Mácxây của Pháp.
- Năm 1912, Người tiếp tục đi một số nước ở châu Âu, châu Phi và châu Mĩ…
- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Tại đây, Người tích cực hoạt động tố cáo thực dân Pháp và tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam, tham gia vào phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hường Cách mạng Tháng Mười Nga => Tư tưởng của Người dần dần biến đổi.
- Tháng 11/1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người.
Tháng 6-1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin”. Luận cương của V.I.Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân tộc mà trải qua 9 năm tìm kiếm (1911-1920) Người mới bắt gặp. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở Thành phố Tua (Pháp) tháng 12-1920. Đây là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, người đầu tiên tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
Cuối năm 1929 đã xảy ra tình trạng hai tổ chức: Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng tranh chấp ảnh hưởng trong quần chúng, bài xích lẫn nhau và mỗi tổ chức đều muốn đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản. Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Vừa mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phát động quần chúng đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, chống địch khủng bố… Trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi toàn thể những người bị áp bức, bóc lột ủng hộ Đảng, đi theo Đảng, gia nhập Đảng nhằm đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến… làm cho nước An Nam hoàn toàn độc lập! Thực hiện chủ trương của Đảng và hưởng ứng Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, một phong trào cách mạng mới, mạnh mẽ đã dâng lên thành cao trào cách mạng 1930-1931; phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) làm tiền đề để tiến đến cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945).
Trước tình hình phong trào cách mạng ở trong nước dâng cao, ngày 28-1-1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Tại Khuổi Nậm (Cao Bằng), lấy danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941). Hội nghị xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.
Tháng 5-1945, với tên gọi mới - Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, Người chọn Tân Trào làm căn cứ để chỉ đạo cách mạng cả nước. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề vùng dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 2-9-1945, trong cuộc mít tinh lớn tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với nhân dân cả nước và toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do.
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, cả dân tộc phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức: Tài chính khánh kiệt, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm(5); ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh đã kéo vào từ ngày 6-9-1945. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời để đề ra những nhiệm vụ cấp bách như: Giải quyết nạn đói, nạn dốt, tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội và đặc biệt là chống giặc ngoại xâm và bài trừ nội phản.
Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc từ năm 1941 đến năm 1945, hãy làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.
– Xác định đường lối và phương pháp cách mạng: Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5 – 1941), giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đồng thời đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang.
– Sáng lập Mặt trận Việt Minh với các hội “cứu quốc”, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; tập hợp và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng.
– Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa, chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc.
– Cùng với Trung ương Đảng đánh giá chính xác thời cơ, chớp đúng thời cơ, kiên quyết phát động và lãnh đạo toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (2 – 9 – 1945).
- Sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại, đến ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau đó, Người tổ chức và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 để hòan thành chủ trương chuyền hướng chỉ đạo chiến lược đã được đề ra trong Hội nghị Trung ương tháng 11/1959, đó là:
- Giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc.
- Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Như vậy, tại mỗi nước Đông Dương phải thành lập mặt trận thống nhất của nước mình để lãnh đạo cách mạng. Do đó, tại Việt Nam thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh.
- Đề ra chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa khi thời cơ thuận lợi; đặt nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là trung tâm.
- Hoạt động chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền:
- Sáng lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941), một hình thức mặt trận có quy mô và tổ chức rộng khắp cả nước do Người đứng đầu, là một trung tâm đòan kết đấu tranh chống Pháp – Nhật để giành độc lập.
- Ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944), là đội quân chính qui cách mạng đầu tiên.
- Tổ chức xây dựng căn cứ địa cách mạng, ban đầu là căn cứ Cao Bằng, đến tháng 6/1945 thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc. Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
- Năm 1942 và 1945 Người đi Trung Quốc liên hệ để tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng đồng minh chống phát xít.
- Sáng suốt dự đóan thời cơ cách mạng và khi thời cơ đến, Người cùng với Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa tòan quốc, ban bố “Quân lệnh số 1”, chính thức phát động tổng khởi nghĩa trong cả nứơc.
- Từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, Người cùng với Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tòan quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang), Hội nghị thông qua kế hoạch lãnh đạo tòan dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
- Từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Người cùng với Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội Quốc dân cũng ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Người làm chủ tịch.
- Ngày 28/8/1945 theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người đứng đầu. Người soạn thảo và công bố Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945).
Tham khảo;
* Những cống hiến:
- Từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
- Từ 1920-1925, chuẩn bị về mặt tư tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản Việt Nam
- Triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng ngày 6/1/1930, đi đến thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930
- Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng dươi sự lãnh đạo của Đảng.
* Trong đó, cống hiến to lớn nhất là cống hiến từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản:
- Từ việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động, truyền bá con đường này vào Việt Nam, Người đã chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Như vậy, việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam có tác dụng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là cống hiến to lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình hoạt động cứu nước của mình.
Tham khảo:
* Những cống hiến:
- Từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
- Từ 1920-1925, chuẩn bị về mặt tư tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản Việt Nam
- Triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng ngày 6/1/1930, đi đến thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930
- Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng dươi sự lãnh đạo của Đảng.
* Trong đó, cống hiến to lớn nhất là cống hiến từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản:
- Từ việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động, truyền bá con đường này vào Việt Nam, Người đã chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Như vậy, việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam có tác dụng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là cống hiến to lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình hoạt động cứu nước của mình.
Câu 1: Các cuộc khởi nghỉa tiêu biểu
1-Khởi nghĩa Bãi Sậy ( 1883 – 1892 )
2-Khởi nghĩa Ba Đình ( 1886 – 1887 )
3-Khởi nghĩa Hương Khê ( 1885 – 1896 )
4-Khởi nghĩa Yên Thế ( 1884 – 1913 )
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương :- Về ý thức trung quân của Phan Đình Phùng và những người lãnh đạo. Phan Đình Phùng từng làm quan Ngự sử trong triều đình Huế. Với tình cương trực, thẳng thắn, ông đã phản đối việc phế lập của phe chủ chiến nên ông đã bị cách chức, đuổi về quê. Tuy vậy, năm 1885. Ông vẫn hưởng ứng khởi nghĩa và trở thành lãnh tụ uy tín nhất trong phong trào Cần vương.- Khởi nghĩa Hương Khê được chuẩn bị và tổ chức tương đối chặt chẽ: Nghĩa quân đã có 3 năm (từ 1885 đến 1888) để lo tổ chức, huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo...
- Lực lượng nghĩa quân được chia thành 15 thứ quân. Mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 người... Nghĩa quân còn tự chế tạo được súng trường theo mẫu súng của Pháp.
- Khởi nghĩa Hương Khê có quy mô rộng lớn. Nghĩa quân hoạt động trên địa bàn rộng (gồm 4 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An. Hà Tĩnh, Quảng Bình) với lối đánh linh hoạt (phòng ngự, chủ động tấn công, đánh đồn, diệt viện...).
* Những cống hiến:
- Từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
- Từ 1920-1925, chuẩn bị về mặt tư tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản Việt Nam
- Triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng ngày 6/1/1930, đi đến thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930
- Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng dươi sự lãnh đạo của Đảng.
* Trong đó, cống hiến to lớn nhất là cống hiến từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản:
- Từ việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động, truyền bá con đường này vào Việt Nam, Người đã chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Như vậy, việc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam có tác dụng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là cống hiến to lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình hoạt động cứu nước của mình.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trước năm 1930 | nguyenhadao
Những cống hiến:
- Từ năm 1911 đến năm 1920, ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lenin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
- Từ 1920-1925, chuẩn bị về mặt tư tưởng tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản Việt Nam
- Triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng ngày 6/1/1930, đi đến thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930
- Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng dươi sự lãnh đạo của Đảng.
Sự kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là vào năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Người đã cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước tiến bộ, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa