Phân tích 10 câu thơ đầu của bài thơ " đồng chí "
Ko chép trên mạng
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
vậy bạn đăng lên trang cần dùng mạng là gì khi bạn kêu là " ko chép mạng"?
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc nhưng bên cạnh đó Người cũng là một hồn thơ tài hoa. Với nhiều tác phẩm giá trị để lại, Bác đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền thi ca nước nhà. “Nguyên tiêu” hay “Rằm tháng Giêng” là một tác phẩm ghi lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử nước nhà. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 sang hè 1948 quân ta lại liên tục thắng lớn trước thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó bài thơ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời cho ta thấy được tấm lòng luôn canh cánh vì nước vì dân của Bác HỒ
Nguyên tác bằng chữ Hán:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền
Bản dịch:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Mở đầu bài thơ là một không gian bao la rộng lớn:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi.
Ánh trăng đêm xuân an lành lồng lộng. Từ “lồng lộng” được đảo lên trên cho ta thấy cái rộng lớn bao la của cảnh sắc đêm xuân. Hình ảnh ánh trăng thường được sử dụng trong thơ Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ở đây, ngay trong đêm Rằm vẫn luôn dõi theo, bầu bạn với Bác.
Câu thơ tiếp:
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Câu thơ cho ta thấy cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Hai từ “xuân” lặp lại nối tiếp nhau mở ra cho ta một không gian rợn ngợp tràn đầy sắc xuân, tràn đầy sức sống. Sông, nước, ánh trăng như nối liền nhau, giao hòa với nhau giữa vẻ đẹp của đất trời.
Câu thơ thứ ba vô tình nói vên hoàn cảnh và vị trí ngắm trăng của Bác:
Giữa dòng bàn bạc việc quân.
Ở hai câu thơ đầu cảnh thiên nhiên được Bác miêu tả quá sống động làm ta tưởng như Bác đang rất nhàn nhã ngắm trăng. Nhưng không, bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc thù, chơi vơi giữa dòng nước. Để tránh sự truy lung của quân địch, Bác cùng các chiên sĩ phải bàn bạc việc quân ở trên thuyền. Và ở nơi đó, ngay giữa trung tâm của đất trời, hồn thơ của Bác như giao hòa với thiên nhiên để vẽ lên cảnh thiên nhiên tuyệt sắc. Đọc câu thơ ta thấy thầm thương Bác, Người luôn đau đáu tấm lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn yêu thiên nhiên cảnh vật. Điều đó cho ta thấy tư thế ung dung lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Câu thơ cuối:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Con thuyền trong câu thơ cuối là ẩn dụ sâu sắc về thắng lợi của cách mạng. Con thuyền cách mạng rực rỡ ánh trăng ngân báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn cách xa. Câu thơ thể hiện một niềm lạc quan, niềm tin vô cùng với cách mạng.
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một bài thơ độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vô cùng của Bác đồng thời cũng nói lên tinh thần lạc quan giữa hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.
- Chép chính xác 6 câu thơ.
- Cơ sở tạo nên tình đồng chí cao đẹp :
+ Cùng chung cảnh ngộ : - vốn là những người nông dân nghèo từ những miền quê hương ‘nước mặn đồng chua.’’, ‘đất cày lên sỏi đá”
+ Cùng chung lí tưởng, cùng chiến hào chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc.
+ Cùng nhau chia sẻ gian lao
Viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh
( ko chép trên mạng nha)
Tác giả Viễn Phương đã đưa chúng ta đến với lăng Bác một cách chân thật nhất, để ta ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên quanh lăng Bác qua khổ thơ đầu tiên:
' Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng 'Câu thơ mở đầu như lời chào chân thành mà tác giả muốn gửi đến Bác rất thành kính và trang nghiêm nhưng đâu đó vẫn có sự thân thuộc, yêu thương qua từ ngữ xưng hô 'con' và 'Bác' lời xưng hô thân mặt như tình cảm của một đứa con ở miền Nam xa xôi sau bao năm xa cách gửi đến người cha thương của mình. Sự ra đi của Bác là nỗi mất mát to lớn của dân tộc Việt Nam, Người đã hi sinh cả cuộc đời mình vì độc lập tự do dân tộc, đất nước. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh từ ''viếng'' thành từ ''thăm'' để giảm đi nỗi đau xót vô vàn dâng trào trong lòng, Bác đã đi xa mãi mãi nhưng trong tim mỗi người dân Việt Nam luôn có Bác. Khung cảnh ngoài lăng còn được tác giả miêu tả đặc sắc qua những hàng tre xanh xanh. Hình ảnh cây tre đã có từ bao đời nay luôn xuất hiện trong nền thơ ca Việt Nam:'Tre xanh xanh tự bao giờChuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manhMà sao nên lũy nên thành tre ơi'Nhà thơ chợt nhận cảm thấy rằng hình cảnh cây tre kia như ý chí của con người Việt Nam, bất khuất, kiên cường trong mọi khó khăn, gian khổ. Dù có bao nhiu gian khổ thì họ vẫn cùng nhau đoàn kết lại để thành như nhưng hàng tre cao vút, thẳng hàng, hiên ngang để vượt qua khó khăn cung nhau. Từ láy '' xanh xanh'' sử dụng ở đây như chỉ con người, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn 'xanh' màu xanh của sự bất diệt. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông ta sẽ luôn bất khuất, dũng cảm, kiên cường để bảo vệ dân tộc. Khổ nhất bao trọn là cảm xúc đầu tiên khi tác giả đến thăm lăng Bác lần đầu, trongkhổ thơ có nỗi sự tiếc thương vô hạn khi Bác đi xa nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc. Qua khổ thơ tiếp theo, chúng ta theo chân Viễn Phương để tiến dần vào trong lăng Bác:'' Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăngThấy một mặt trời trong lăng rất đỏNgày ngày dòng người đi trong thương nhớKết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân''Hình ảnh mặt trời xuất hiện rất nhiều trong nền thơ ca Việt Nam ( nêu thơ ). Hình ảnh mặt trời của tự nhiên luôn soi sáng cho vạn vật. Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để nói đên Bác, Người như mặt trời vậy hi sinh cuộc đời mình vì cách mạng Việt Nam, soi sáng đường đii đến độc lập tự do cho dân tộc ta. Sự cống hiến to lớn của Bác là tấm gương sáng cho lớp trẻ Việt Nam noi theo. Điệp từ 'ngày ngày' nhấn mạnh luôn có người nhớ đến Bác - vị cha già, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, sự liên tục của thời gian lặp đi lặp lại của thiên nhiên như lí tưởng, í chí của Người sẽ luôn sáng chói như mặt trời kia vậy. Sự miên man, trải dài vô tận của dòng người vào viếng lăng Bác mang những phút giây trang nghiêm và tĩnh lặng trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn trước sự ra đi của Bác. Dòng người ấy luôn đi mái trong niềm thương nhớ Bác, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dâng dài vô tận để dâng lên Bác Hồ kính yêu. 'Bảy mươi chín mùa xuân' là số tuổi của Bác. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Qua khổ thơ tác giả muốn nhấn mạnh sự hi sinh và cống hiến có ý nghĩa to lớn với dân tộc Việt Nam, sự hi sinh ấy đã giúp chúng ta có nền độc lập, hòa bình hôm nay.
a) Từ sai"hai" phải đổi thành"đôi"
=> Anh với tôi đôi người xa lạ
-Từ "hai"không thể hiện sắc thái biểu cảm của bài thơ.
b) Câu thơ có từ "tri kỉ":"Vầng trăng thành tri kỉ
-của bài thơ:"Ánh trăng"
-Giông nhau:Từ tri kỉ trong 2 bài thơ đều thể hiện người bạn thân thiết gắn bó
-Khác nhau:+ Ánh trăng: Tri kỉ thể hiện sự gắn bó giữa người và trăng
+ Đồng chí: Là tình bạn gắn bó giữa người với người. Tình cảm ấy làm nên tình đồng đội,tình đồng chí vô cùng thiêng liêng của những người có cùng chung lí tưởng với nhau.
c)Hai từ “Đồng chí" mới mẻ đó đã như là sự kết tinh, sự tụ hội những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con người. Đồng chí là tri kỷ, nhưng cao hơn tri kỷ, mới hơn tri kỷ vì nó là tình cảm của một đội quân đông đảo những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn chiến đấu của những người cách mạng.
Câu c mình đưa ra gợi ý rồi đấy, nếu bạn chưa biết cách làm thì kết bạn và nhắn tin với mình nhé! mình chỉ cho:)))Chúc bạn học tốt
Em tham khảo:
Thơ ca về người lính kháng chiến không xa lạ trong văn học VIệt Nam. Người lính hiện lên trong thơ ca mang theo hào hùng, khí thế. Và họ sớm đã đi sâu vào trong niềm thương, nỗi nhớ của tất cả chúng ta. Một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất cho mà ta không thể không kể đến chính là bài Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu và đặc biệt là khổ thơ thứ hai của bài. Khổ thơ thứ hai chính là những cảm thông, thấu hiểu mà người lính dành cho nhau.
Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu viết trong kháng chiến chống Pháp gian khổ, trường kì. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 trong thời kì của chiến dịch Việt Bắc, Thu đông. Vì thế, có thể nói, Đồng chí cũng gắn liền với những trải nghiệm của chính nhà thơ.
Trước hết, họ dành cho nhau những quan tâm chân thành, thấu hiểu và yêu thương:
“Ruộng nương anh gửi ban thân cày
...
Giếng nước… gốc đa nhớ ngươi ra lính"
Với người nông dân, còn gì quý và đáng trân hơn ruộng nương, gian nhà. Nhưng khi tổ quốc gọi tên, họ bỏ qua tất cả. Họ tiến bước ra đi dứt khoát.
Thiếu thốn nơi chiến trường làm ta thấy thêm thương, thêm hiểu cho hoàn cảnh của người lính:
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày.
Thiếu thốn về vật chất của người lính được ngòi bút Chính Hữu tái hiện bằng một giọng điệu đầy những cảm thông, thấu hiểu. Vì có lẽ chính ông cũng từng rách vai ,từng miệng cười buốt giá. Khó khăn, gian khổ nơi chiến trường đầy rẫy nối tiếp ngăn cản bước chân người lính cách mạng.
Nhưng đẹp nhất chính là hình ảnh họ tiếp thêm cho nhau sức mạnh niềm tin để bền gan, vững lòng và cùng vượt qua những cơn ớn lạnh “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Bệnh tật tại đây đâu có gì lạ. Người lính nhọc nhằn vô cùng. Nhưng không vì thế mà ta thấy họ nhụt lòng nản trí.
Nhà thơ Chính Hữu đã chọn lựa những hình ảnh thơ thật đắt để diễn tả sâu sắc sự gắn bó của các anh giúp các anh lính cụ Hồ. Ngòi bút hiện thực pha lãng mạn ấy làm ta vừa xúc động, vừa đau đớn.
Nhưng người lính đã dũng cảm tiếng bước và vượt quan gian khổ. Cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” thật cảm động, chứa chan tình cảm chân thành và nghĩa tình cách mạng. Đó là tình cảm gắn kết đến khôn cùng. Và cũng là chất liệu của sự thành công, của hòa bình và hạnh phúc.
Bạn đọc tìm hiểu đoạn thơ thứ hai của bài thơ ĐỒng chí sẽ thêm hiểu biểu hiện cao đẹp của tình cảm gắn kết này. Đó là tình cảm thiêng liêng vượt trên mọi ngăn trở để gắn kết, để yêu thương. ĐỒng chí xứng đáng là bài thơ tiêu biểu cho kháng chiến chống Pháp và để lại trong lòng người muôn vàn xúc cảm khôn nguôi.
-Tham khảo-Phân tích 10 câu thơ giữa bài Đồng chí ngắn gọn, hay nhất
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính (7 câu thơ đầu)
a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân
(4 câu thơ đầu)
- Xuất thân từ những miền quê nghèo:“Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua” gợi lên những miền đất chiêm trũng, những vùng ngập mặn
+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” lấy ý từ câu tục ngữ “chó ăn đá, gà ăn sỏi” gợi lên những vùng trung du đồi núi thiếu nước, cằn cỗi.
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, lời thơ dân giã mộc mạc
à Anh và tôi đều là những người nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi.
- Gặp nhau tình cờ ngẫu nhiên: “Anh với tôi đôi người xa lạ /Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
+ Anh và tôi ở hai câu thơ trên đứng tách hai dòng khác biệt, tới đây đứng ngang hàng: biểu thị sự gần gũi và gắn kết.
+ “Đôi người xa lạ” (So sánh “đôi” với “hai”): kéo gần khoảng cách thân quen.
+ Chẳng hẹn quen nhau: nhấn mạnh sự tình cờ. Tình cờ chính là cơ duyên tốt nhất cho mọi sự gắn kết.
à Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen gắn bó với nhau. Cơ sở đầu tiên hình thành tình cảm đó là sự đồng cảm về giai cấp. Họ là những người nông dân áo lính, họ như thấu hiểu những nỗi khổ của nhau, thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau ngay từ lần đầu gặp gỡ.
b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” biểu tượng cho chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lí tưởng. Họ chiến đấu với lý tưởng bảo vệ Tổ Quốc.
- Nhịp thơ 3/3 tạo nên thế sóng đôi, một bên là anh, một bên là tôi, hai người cùng một nhịp, chung một phách luôn sát cánh bên nhau để thực hiện lý tưởng.
à Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
- Hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, thiếu quân trang
- Hình ảnh giản dị, gợi cảm “chung chăn” “đôi tri kỉ”: sự chia sẻ với nhau những thiếu thốn.
à Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau, cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan. Đó là cơ sở nữa để tình đồng chí càng thêm gắn bó.
d. Tình đồng chí được gắn kết thiêng liêng ở câu thơ “Đồng chí”
- Cấu trúc câu thơ đặc biệt, tạo điểm nhấn cho cả bài, kết cấu bó mạ.
- Nơi kết tinh của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng. Trước câu thơ này, họ là những người xa lạ gặp nhau, có chung mục đích, chia sẻ nhau những khó khăn vật chất ban đầu sau câu thơ này, họ trở thành những người đồng chí thân thương, có thể chia sẻ với nhau mọi điều. Câu thơ khép lại nhưng mở ra những chân trời xúc cảm khác về sự thấu hiểu, gắn kết của tình đồng chí.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí
a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau
- Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.
- “Mặc kệ” à Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa: “Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”.
- Hình ảnh “ruộng nương”, “gian nhà không” gợi về quê hương, về những người còn lại ở quê hương. Đặc biệt “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.
- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.