Hình ảnh bếp lửa và người bà có mối quan hệ ntn trong bài thơ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ. Bếp lửa được nhắc tới 10 lần trong bài:
- Hình ảnh bếp lửa “chập chờn” , “ấp iu” xuất hiện đầu bài gợi lên nỗi nhớ của cháu về bà
+ Hình ảnh bếp lửa có những biến thể: khói, lửa
+ Bếp lửa gắn với kỉ niệm tuổi thơ:cùng bà nhóm lửa, tiếng tu hú kêu,
- Bà không chỉ là người nhóm lên ngọn lửa thực tế, mà đó là ngọn lửa của tình yêu thương, hi vọng, tác giả dựa vào đó để gửi gắm tình cảm, cảm xúc của mình
- Tác giả thốt lên “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa”, bếp lửa trở thành biểu tượng thiêng liêng, cao đẹp
- Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà tảo tần, giàu yêu thương
Em tham khảo:
Bếp lửa của Bằng Việt là chuỗi những dòng kí ức tuổi thơ đẹp đẽ và hơn hết những kỉ niệm đó luôn gắn với người bà thân yêu. Chỉ với một bài thơ bảy khổ nhưng đã khắc họa những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của bà. Bà cũng chính là biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hi sinh hết lòng vì con, vì cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất qua những dòng thơ thấm đẫm tình yêu thương.
Hình ảnh bà trong dòng kí ức tuổi thơ cháu hiện lên thật gần gũi, thiêng liêng với tình yêu thương vô bờ, sự che chở và bao bọc. Cứ thế qua từng câu thơ, từng con chữ những đức tính, sự hi sinh của bà được khơi ra với lòng biết ơn, tự hào sâu sắc của tác giả.
Ba câu thơ đầu với hình ảnh bếp lửa là mạch nguồn khơi dậy hình ảnh người bà thân thương: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Bếp lửa với ánh lửa lung linh, bập bùng vào sáng sớm gợi nên điều gì đó thật thân thương, gần gũi. Hai chữ ấp iu vừa diễn tả được cái khéo léo trong công việc nhóm lửa của bà, nhưng đồng thời còn cho thấy tấm lòng bao dung, nhân hậu toát ra từ những cử chỉ ấy. Từ hình ảnh bếp lửa, bằng tình cảm chân thật, tự nhiên tác giả đã bật lên: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Đó là câu thơ dồn nén biết bao tình cảm chân thành, ẩn dụ nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn cực nhọc trong đời bà. Đồng thời đó cũng là nỗi ám ảnh khôn nguôi day dứt trong lòng Bằng Việt. Hình ảnh bà hiện lên thật nhẹ nhàng, sâu lắng và những phẩm chất đẹp đẽ của bà lần lượt hiện ra rõ nét ở những khổ thơ tiếp theo.
Bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương, chịu khó. Trong những năm cả dân tộc ta sống trong đói kém, cái đói đã giết chết biết bao nhiêu người dân Việt Nam, nhưng bà vẫn tần tảo, nuôi cháu khôn lớn. Quá khứ về những năm đói kém ấy hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết qua cách thể hiện ngôn từ đặc sắc đói mòn đói mỏi và hình ảnh đầy sự ám ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Mỗi lần cháu nghĩ lại vẫn còn cay cay nơi đầu sống mũi. Khổ thơ không một lần nhắc đến bà, nhưng vẻ đẹp của bà vẫn hiện hữu, vẫn thật lớn lao, đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự hi sinh thầm lặng. Bà tảo tần nuôi nấng, bà là cây cổ thụ to lớn che chở cho cháu và cả gia đình vượt qua những giông tố cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé mà ý chí, sự hi sinh lại lớn lao vô cùng.
Bà không chỉ tảo tần, chăm lo cho gia đình mà bà còn là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu khôn lớn trưởng thành. Bà vừa làm bà, vừa làm cha mẹ bao bọc, che chở cho cháu. Tám năm cha mẹ xa nhà, bận công tác ở chiến khu là tám năm cháu được sống trong vòng tay yêu thương, ấm áp của bà. Bà với một tình yêu thương thầm lặng, mỗi ngày đều bảo ban, dạy dỗ cháu: Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Chính bà là là người đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu bằng việc kể những câu chuyện ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát của dân tộc. Bà còn bảo ban, dạy cháu từng chút từng chút một để cháu ngày một khôn lớn trưởng thành trong suy nghĩ và nhân cách. Hàng loạt các từ bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả sâu sắc tình yêu thương bao la, sự chi chút hết mình bà dành cho cháu.
Không chỉ vậy, bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là hậu phương lớn để con cháu yên tâm công tác. Mặc kệ Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, dù chiến tranh có tàn phá khốc liệt hơn nữa, bà vẫn vững lòng trước những thử thách: Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Câu thơ như lời bà nói, giản dị và chân thật biết nhường nào, nhưng nó có sức lay động lớn đối với mỗi chúng ta. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ dại, dạy dỗ cháu học hành mà bà còn là hậu phương vững chắc cho những đứa con ngoài chiến trường yên tâm công tác. Hình ảnh bà gợi nhắc ta nhớ đến người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn. Trước những bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn vững vàng, tình yêu thương, sự bao dung và tấm lòng hi sinh chính là sức mạnh giúp bà giúp bà chống lại mọi khó khăn, gian khổ.
Đẹp đẽ nhất, thiêng liêng, cao cả nhất chính bà là người đã khơi dậy những mơ ước, hi vọng, bà trao truyền sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Lòng bà luôn ủ sẵn một niềm tin dai dẳng, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của kỉ niệm, tình yêu thương sẽ nâng bước, soi sáng cho cháu trên suốt các chặng đường đời. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Ở khổ thơ tiếp theo tác giả sử dụng hàng loạt điệp từ nhóm: Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo sẻ mới chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người: đó là tình yêu thương, niềm vui; sự san sẻ trong khó khăn của tình làng nghĩa xóm và đẹp đẽ nhất là những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ. Nhờ có bà mà cháu biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng, biết sống ân nghĩa thủy chung với quê hương, đất nước.
Bằng sự kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm, giọng điệu hồi tưởng, đậm chất suy tư tác giả đã cho thấy chân dung ba thật cao cả, đẹp đẽ mà cũng hết sức thân thương, bình dị. Bà là hình ảnh tiêu tiểu cho người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo và giàu đức hi sinh. Đồng thời bài thơ cùng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu thương kính trọng ông bà và gia đình.
1/ Mở bài: Cảm nhận chung nhất về bài thơ và tình cảm bà cháu đằng sau hình ảnh bếp lửa.
2/Thân bài:
- Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà, về những hồi ức đẹp đẽ của tuổi thơ, về tình bà cháu - Bếp lửa đời: + Là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam + Gợi sức sống, tình cảm gia đình và sự bình yên, no ấm. - Bếp lửa trong thơ Bằng Việt: + Hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà khiến cho người đọc liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ, thiêng liêng. + Nỗi nhớ về bếp lửa được gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác, cảm giác, khứu giác, xúc giác…Mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi. + Bếp lửa gắn với bà: hình ảnh bếp lửa ấp iu…chính là sự hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu…Nếu bếp lửa củi rơm gắn với cảm nhận về mùi khói, với dư vị sống mũi còn cay, thì bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như người chăm sóc vừa như một người bạn lớn….(dẫn chứng) + Những kí ức tuổi thơ ùa về trong tâm tưởng cháu… Nhớ về bếp lửa, nhắc về bếp lửa là nhắc về bà với những công việc xoay quanh bếp lửa, và tình cảm của một người bà đôn hậu, tần tảo.…(dẫn chứng) + Qua dòng hồi tưởng hình ảnh bếp lửa không còn là bếp lửa bình thường mà là một hình ảnh biểu tượng cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí cháu với sự hòa quyện tuyệt vời giữa cái ấm áp của bếp lửa đời và bếp lửa lòng người. ( dẫn chứng) + Từ bếp lửa, tình cảm của bà đã được hình tượng hóa trở thành ngọn lửa, là một hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn….Bếp lửa trong kí ức tuổi thơ chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu. + Trong tình cảm của bà có tình yêu quê hương, đất nước của những người xa quê, nhớ bà là nhớ quê hương đất nước.
3/Kết bài:
- Hành trình từ bếp lửa đời đến bếp lửa trong thơ Bằng Việt là hành trình của tình yêu, nỗi nhớ, sự biết ơn và sức sống mãnh liệt. - Bếp lửa trong dòng hồi tưởng nhưng sẽ rực sáng với ngọn lửa tình yêu và niềm tin mãnh liệt, không bao giờ vụt tắt.
dàn ý đó
Khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lại, khi nhớ về bà là nhớ ngay đến hình ảnh bếp lửa. ... Đó là biểu tượng thiêng liêng về cuộc đời người bà thân yêu trong trái tim cháu. Chính bởi những điều đó, bếp lửa và bà trở thành hai hình ảnh thơ độc đáo, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời.
Trong bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt có hai hình ảnh thơ xuyên suốt bài thơ và luôn đan xen vào nhau. Đó là hình ảnh bếp lửa và hình ảnh người bà. Khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lại, khi nhớ về bà là nhớ ngay đến hình ảnh bếp lửa. Trong kí ức tuổi thơ của người cháu nhỏ, bà và bếp lửa là hai hình ảnh không thể tách rời. Nhắc đến bà là nghĩ đến những “lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" nhưng bà vẫn tảo tần thay con nuôi dạy cháu. Dù những năm đói nghèo cực nhọc “đói mòn đói mỏi” hay những tháng năm cách mạng bùng lên bà vẫn sớm sớm chiều chiều “bếp lửa bà nhen” để lo cho cháu cái ăn, cái mặc... Bếp lửa ấy mang lại những tia sáng thẩn kì biết mấy: “ấp iu nồng đượm”, “nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”, “nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui”, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”,... Bếp lửa không còn là bếp lửa hiểu theo nghĩa đen mà đã được chuyển nghĩa đề trở thành biểu tượng của yêu thương, của sẻ chia và che chở. Đó là biểu tượng thiêng liêng về cuộc đời người bà thân yêu trong trái tim cháu. Chính bởi những điều đó, bếp lửa và bà trở thành hai hình ảnh thơ độc đáo, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời.
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, những năm tháng xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc nhà thơ viết nên bài thơ Bếp Lửa và những cảm nhận về tình bà cháu thấm thía, sâu sắc thiêng liêng. Và hình ảnh người bà đã sống mãi trong lòng người đọc về một người phụ nữ Việt Nam âm thầm hi sinh, yêu thương cao cả và là ngọn lửa bất diệt của niềm tin cho người cháu yêu thương của mình, khơi dậy trong lòng chúng ta niềm xúc động nghẹn ngào về tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn sương sớm, ấp iu nồng đượm gắn liền với hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương. Người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà.
Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình chung lên trê, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như dã thổi đến tâm hồn người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà.
Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt. Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, những hơn hết bà cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm đoàn kết với tình làng nghĩa xóm. Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc nhỏ “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.
Như vậy, bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, nhà thơ Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất diệt trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà nhắc ta về tình bà cháu thiêng liêng, về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam yêu nước sẵn sàng hi sinh vì lợi ích cá nhân để vì tinh thần dân tộc.
Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ. Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà - mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quên hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’”
Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt... Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vẫn thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô. Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.
P/.s tham khảo nha
hình ảnh bếp lửa và người bà đều thể hiện sự gắn bó, thân thiết với tuổi thơ của người cháu. người cháu dù có đi xa nhưng vẫn luôn nhớ về bà với bếp lửa