K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 12 2019

Mk lp 6 Kb nha!

31 tháng 3 2020

Trang giang là một bài thơ tiêu biểu của Huy Cận trước cách mạng. Nó thể hiện một nỗi buồn thấm thìa tới tận đáy hồn nhân thế của Thơ mới. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cho thấy nỗi buồn ở đây mang tầm vóc vũ trụ và cảm hứng về không gian sẽ là cảm hứng chủ đạo chi phối hồn thơ Huy Cận trong bài thơ này.

B - THÂN BÀI

Theo lời của tác giả, cảm hứng của bài thơ đã bắt đầu vào một chiều thu năm 1939. Khi đó tác giả đứng ở bờ phía Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng mà nghĩ về kiếp người thật nhỏ bé cô đơn và không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên sông Hồng chỉ là sự gợi cảm. Bài thơ còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác trên đất nước quê hương. Cảnh sông ở bài thơ tuy buồn nhưng đẹp và cũng thật quen thuộc với người Việt Nam.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Âm hưởng chung của khổ thơ bàng bạc không khí Đường thi cổ điển.

Ngay dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã bắt gặp từ Hán Việt “tràng giang”. “Tràng giang” tạo nên một âm hưởng xa xôi: Có con sông đấy nhưng dường như nó không có thực. “Tràng giang” còn gợi ý niệm về không gian “con sông dài”. Nó gợi cả ý niệm về thời gian: con sông ấy có từ khi nào? Có lẽ nó chảy triền miền từ khi có vũ trụ, từ quá khứ và sẽ còn chảy mãi khi lớp người đang sống hôm nay sẽ trở thành thiên cổ. Tác giả không dùng từ “sông dài” bởi quá nôm na và cũng không gọi là “trường giang”. Có lẽ 2 vần “ang” đã tạo nên một cộng hưởng gợi lên sự trống vắng mênh mang của lòng người. Mặt khác, trong tâm thức văn hóa của người Việt, đất nước và thôn xóm đã hình thành bên dòng trànggiang như thế cho nên câu thơ dã gợi hình ảnh tượng trưng cho non sông đất nước muôn đời.

Trên dòng tràng giang ấy, những con sóng không dữ dội, nó chỉ gợn lên. Thế nhưng dòng sông lại được nhân hóa với nỗi buồn “điệp điệp”. Hai tiếng “điệp điệp” gợi hình ảnh về 2 con sóng kế tiếp vào nhau cứ đuổi nhau xa mãi nơi chân trời. Hơn thế nữa, “điệp điệp” tạo nên một không gian bao la bát ngát của dòng sông, quyện nỗi buồn cảnh vật với hồn người. Mỗi con sóng mang một tâm sự buồn, cả con sông đầy sóng là hằng hà sa số những nỗi buồn. Thật ra nhìn tràng giang như một sinh thể đầy tâm tư buồn là do chính nỗi buồn từ trong lòng nhà thơ lan tỏa - à trải dài trên sóng nước. Đó là một nỗi buồn vô tận triền miên hết lớp này đến lớp khác không thôi.

Ba câu thơ tiếp theo gợi sâu hơn nỗi buồn đó. Ở đây xuất hiện ba hình ảnh được nhà thơ quan sát trên dòng tràng giang. Đó là một con thuyền xuôi mái dường như trôi song song với dòng nước tưởng như nước không có quan hệ gì với thuyền.

Hình ảnh tiếp theo cho thấy sự mâu thuẫn giữa thuyền và nước: nếu thuyền về thì nước lại. Và hình ảnh cành củi khô trơ trọi kết thúc khổ thơ. Đến đây ta chợt nhớ câu thơ quen thuộc của Bà Huyện Thanh Quan: “Gác mái ngư ông về viễn phố”, ta mới thấy câu thơ của Huy Cận mới hơn, nỗi buồn thấm thìa hơn. Dù gác mái nhưng trên thuyền vẫn có bóng ngư ông, nghĩa là vẫn có con người. Con thuyền vẫn có bến xác định là “viễn phố”. Còn trong câu thơ của Huy Cận, con thuyền vừa không có dáng người vừa vô định. Miêu tả sự vật (thuyền) vốn gắn bó với đời sống con người mà lại không có con người tạo nên một cảm giác rờn rợn về thế giới loài người đã mất. Thuyền và nước vốn gần gũi với nhau nhưng không phải bao giờ cũng gắn bó vì mỗi con sóng chỉ xuôi theo thuyền trong chốc lát, vì những dòng nước trên tràng giang sẽ chia ra trăm ngả xa xôi. Nỗi buồn ở dòng thơ thứ 3 là nỗi buồn của sự tan tác chia li. Thực ra thuyền cũng không biết nhờ đâu mà trôi chỉ biết rằng nước song song không đi với thuyền. Do đó “thuyền về” đối ứng một cách trớ trêu với “nước lại”. Câu thơ rất dễ gợi đến nghịch cảnh mà Hàn Mặc Tử đã chua chát.

Gió theo lối gió, mây đường mây .

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Nỗi buồn được đẩy lên cao hơn khi xuất hiện dòng nước.

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Hiện tượng đảo ngữ đã dồn thông báo vào từ “củi”, nó gợi cả một thân phận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ là một cành cây xanh tươi mà giờ đây chỉ còn là một cành củi khô bập bềnh trên sóng - những cá thể cũng rất cô đơn. Cành củi ấy rất thụ động, nó bị xô dạt theo những dòng tràng giang. Thân phận của cành củi trải qua bao đau thương khô héo, bao trôi dạt đổi thay. Đến đây khổ thơ đã tạo nên cái tương phản giữa sự mênh mang vĩnh hằng của không gian với sự nhỏ bé

của cành củi. Tất cả chỉ làm sâu thêm nỗi sầu nhân thế của nhà thơ trên dòng tràng giang cuộc đời. Mỗi kiếp người có khác gì cành củi khô kia cũng mong manh đơn độc, cũng lênh đênh trôi dạt không biết về đâu.

Câu thơ thứ nhất tả sóng, câu hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên sông Đọc câu thơ thứ nhất ta thấy những vòng sóng đang loang ra, gối lên nhau, xô nhau đến chân trời thì ở câu thứ hai mở ra những luồng nước song song rong ruổi mãi về cuối trời. Trên sóng nước muôn trùng ấy hình ảnh con thuyền trôi im lìm được nhấn đậm nét bằng hình ảnh một cành củi khô bơ vơ lạc nẻo.

Vào đến khổ thơ thứ 2, Huy Cận đã vẽ thêm nhiều nét rất cụ thể để diễn tả sự mênh mang lạnh lẽo xa vắng của dòng sông bằng cách miêu tả nỗi buồn của cảnh vật.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

“Lơ thơ... đìu hiu”là không gian kề cận của bờ tràng giang. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là một không gian vời vợi, cách rất xa dòng tràng giang.

Dường như dòng sông đang chảy qua một nghĩa địa, ở nơi ấy chỉ có gò mả ngổn ngang. Những cồn nhỏ lụp xụp bên bờ sông đã gợi một sự trơ trụi trống vắng. Nó vừa có sự thưa thớt rải rác trong từ “lơ thơ” lại vừa gợi cảm. “Cồn nhỏ lơ thơ” còn có một sức gợi, hình như những cồn nhỏ ấy đang lừ đừ trôi không phải trên dòng nước mà trong một sức mạnh thần bí của dòng đời. Điều cảm nhận này chúng ta có thể đọc được trong bài ca quan họ “Sông Cầu nước chảy lơ thơ”. Cái cồn nhỏ lơ thơ ấy đáng ghê sợ và lạnh lẽo hơn bởi có ngọn gió đìu hiu đầy âm khí làm bầu bạn. Từ “đìu hiu” gợi cõi âm đáng sợ rất ghê rợn đưa chúng ta đến thế giới _ khác, không phải thế giới cuộc đời. Chính Huy Cận cho rằng, khi ông viết câu thơ này, ông bị ám ảnh bởi “Chinh phụ ngâm”: “Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Từ láy đìu hiu rất dễ gợi không khí tang tóc. Xuân Diệu từng viết: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”.

Dòng thơ thứ 6 là một câu hỏi khắc khoải về một không gian ấm áp tình người “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đây là không gian giả định, không gian mơ ước, một không gian mà nhà thơ muốn dứt ra khỏi cõi hãi hùng của cồn nhỏ, của gió đìu hiu. Thế nhưng cố gắng lắng nghe thì tiếng làng xa, tiếng của đời thường hoàn toàn không có. Tuyệt vọng hơn là cầu mong những tiếng lơ thơ thưa thớt của phiên chợ vãn cũng không có nốt. Phiên chợ vãn buổi chiều của thôn quê Việt Nam ngàn đời vốn rất tiêu sơ và ảm đạm. Nó không giống như một phiên chợ “lao xao chợ cá làng ngư phủ” của Nguyễn Trài. Chợ vãn gợi nên cái buồn nhưng dù sao vẫn còn dấu vết của con người. Ở đây ngay cả cái tiếng của phiên chợ ấy cũng không có. Nỗi buồn nhân thế được nhân lên gấp bội.

Hai câu thơ sau hướng về không gian trống không của vũ trụ:

Nắng xuống... chót vót

Sông dài... cô liêu

Có một cái trục tung được dựng thẳng đứng lên. Nhờ nắng xuống mà ta thấy trời lên, lên đến mức làm ta choáng ngợp ngỡ rằng đang nhìn xuống trái đất như là một đỉnh núi mà vũ trụ thăm thẳm như một thung lũng ở phía dưới.

Có một cái trục hoành cắt ngang đó là một dòng sông dài và bầu trời cứ mở rộng ra thành bến hoang lạnh cô liêu khiến cho dòng sông hoang vắng lạ lùng.

Như vậy có một hệ trục tọa độ của không gian mà chẳng hề có một giá trị đáng kể nào để được ghi nhận. Khổ thơ này đã nhấn mạnh thêm cảm hứng dậm đặc về không gian của bài Tràng giang và cho thấy cảm quan rất tinh tế của Huy Cận. Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác giữa trời và đất là hữu hạn. Còn khi mặt trời đã nhuốm hoàng hôn thì ánh nắng đã hắt lên cao, bầu trời sẽ trở nên thăm thẳm không cùng, con mắt của chúng ta khó lòng mà nhìn tận cùng độ sâu hun hút ấy. vẻ đẹp rất hoang sơ, hùng vĩ chỉ làm cho nỗi buồn thêm dằn vặt và lan rộng. Cái bến cô liêu nào cũng rất dễ gợi thân phận của người ngắm cảnh.

Sang khổ thơ thứ ba dường như có sự đối lập với khổ thơ hai.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thần mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Tác giả không quan tâm tới cái mênh mông, cái hùng vĩ mà chú ý đến những cánh bèo dạt. Những cánh bèo dắt díu nhau lê thê, hàng nối hàng không dứt và chầm chậm trôi cũng ngơ ngác như con thuyền, cành củi khô ở khổ thơ đầu. Chính trong những hàng bèo ấy tạo ra sự chuyển động dọc song song gợi về một sự đơn điệu tẻ nhạt.

Nếu những khổ thơ trên con thuyền, cành củi là những cá thể buồn thì ở đây những tập hợp có quan hệ với nhau nhưng không làm giảm đi nỗi buồn. Nếu khổ thơ trên thân phận của thuyền của củi không định hướng thì những hàng bèo này cũng mặc cho nước cuốn trôi. Cá nhân hay cộng đồng cũng mang nỗi buồn như nhau. Trong Tràng giang cuộc đời và tất cả cũng đều là những thân phận thụ động.

Nếu trên kia mơ ước giả định một âm thanh thì giờ đây lại mơ ước giả định một hình ảnh. Nhà thơ rất mong có một chuyến đò ngang để cắt mạch dòng thời gian nghiệt ngã nhưng “Mênh mông không một chuyến đò ngang”.

Không có đò thì lại mơ ước có một cây cầu nối giữa đôi bờ thế nhưng cầu cũng không và một chút niềm thân mật của tình người cũng không có nốt. Hai từ “không” phủ định mạnh mẽ hơn rất nhiều so với câu hỏingơ ngác “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Điều này cho thấy nội tâm của tác giả tăng lên rất nhiều: càng lúc nỗi sầu ấy, nỗi khát khao tình người càng trở nên cồn cào vò xé và bức bách hơn. Câu thơ tiếp theo như một tiếng thở dài đành phải chấp nhận chỉ đứng bên này tràng giang để ngắm bên kia mà không hề gặp.được.

Đọc câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” ta như thấy xuất hiện hai màu, hai sự vật chứa đựng sắc thái lạc quan đó là bờ xanh và bãi vàng nhưng không thể đến được nơi ấy. Từ “lặng lẽ” đặt trong câu thơ bưng bức một nỗi đau gợi nên sự u buồn của nhà thơ và của Tràng giang. Như vậy cùng lúc Tràng giang mang tính chất biểu tượng - đây là con sông cuộc đời, là hoang mạc vắng tanh của cuộc đời. Nó là bờ khổ đau ở bên này mong tìm kiếm cái bờ hạnh phúc ở bên kia.

Dường như tất cả những cảm xúc, những ấn tượng, những suy nghĩ của Huy Cận đã dồn lại ở khổ thơ cuối cùng này. Dòng đầu miêu tả phía chân trời, những lớp mây trắng ngày càng dâng cao lên, nó phản chiếu ánh hoàng hôn trông giống như những dãy núi bạc. Đây là một hình ảnh rất đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến của nhà thơ đối với thiên nhiên, xứ sở.

Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chất chồng ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông giống như một giọt nắng từ trên trời cao rải xuống. Nhà thơ có cảm giác cả không gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. Xuân Diệu đãtừng bình “bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh / lệch cánh đi”. Đây là một cách nhìn rất lạ, chỉ có các nhà thơ mới quan niệm được như vậy. Không gian là hữu hình không khối lượng. Đám mây xốp cũng như vậy. Thế nhưng không gian làm nghiêng cánh chim, những đám mây cứ ùn lên tạo thành những hòn núi bạc. Hình như cái nặng của núi mới có khả năng đè lên cánh chim trời ấy.

Hai dòng thơ có cái thế tương phản: Một bên là lớp mây cao hùng vĩ và một bên là sự đơn độc nhỏ bé của cánh chim. Cái mênh mông của vũ trụ và cái nhỏ bé của một thân phận đã gợi nên sự vĩnh viễn của vũ trụ và cái hữu hạn nhỏ bé cô đơn của kiếp người. Như vậy, bất cứ ở khổ thơ nào, nhân vật tôi thường gởi mình vào trong hình ảnh để ám chỉ thân phận. Cánh chim nhỏ ở đây là trường hợp như vậy.

Cả bài thơ Tràng giang hoang vắng là vì người đọc chỉ thấy cảnh, thấy không gian. Nhưng đến hai dòng cuối, con người mới bắt đầu hiện hữu không phải với dáng vẻ bề ngoài mà là nội tâm ở bên trong.

Thể hiện rõ nhất cho cái nội tâm ấy phải kể đến câu thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. “Dợn dợn” đối ứng với “điệp điệp”, nó gợi lên cho chúng ta hình ảnh sóng nước tràng giang dường như chỉ còn dập dềnh một chỗ. Lí do là thời gian đã chuyển về buổi chiều muộn, tầm nhìn con người đã bị thu hẹp lại nhưng “dợn dợn” gợi một cảm giác về tâm trạng rất lạnh lẽo, rất ghê sợ. Cái “dợn dợn” ấy đang vời dần

xa, cái hoang lạnh đang chuyển dần về phía tít tắp của bóng tối. Con nước ở đây chính là những con sóng, những lớp sóng.

Kết hợp tất cả những từ ngữ ta sẽ thấy lớp sóng cứ gợn lên rồi trôi về phía mênh mông, càng xa càng lạnh lẽo ghê sợ.

Nếu ở câu đầu là sóng của tràng giang gợi lên nỗi buồn điệp điệp thì ở câu này cái tạo nên lớp sóng tạo nên nỗi buồn chính là lòng quê. Nói đúng hon những lớp sóng này không phải gợi lên từ tràng giang mà là nơi sâu thẳm nhất của lòng quê. Do đó những lớp sóng như đang vỗ về nơi xa xôi ấy lại chính là những lớp sóng ào ạt trào dâng trong lòng nhân vật trữ tình. Như vậy “Dợn dợn vời con nước” là hình ảnh cũng là tình cảm diễn tả nỗi buồn của lòng quê, nỗi buồn của con người đang sống giữa đất đai quê hương mình mà như “thiếu quê hương”, cứ như người xa xứ chạnh lòng nhớ quê nhà. Ý thơ rất dễ liên hệ đến tâm sự thẹn với ông Đào của Nguyễn Khuyến:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Ở ngay trên mảnh đất trong mùa thu nước Việt mà cụ Tam Nguyên như đang lạc vào một không gian đơn lẻ cô quạnh nào đó. Thế mới hay dù là thế hệ sau, dù có kiến thức Tây học như Huy Cận và các nhà văn mới nhưng cái mạch ngầm yêu nước và đau xót khi mất nước là mạch chảy trong tình cảm lí trí, tâm thức xưa nay của người Việt Nam.

Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đã gợi rõ nhất, sâu nhất nỗi buồn của Huy Cận. Câu thơ gợi nhớ ngay đến một ý thơ rất nổi tiếng của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Ở đây có sự gặp gỡ giữa cổ điển và hiện đại. Điển tích trong văn học là ẩn dụ gợi cho người đọc nhiều khám phá bí mật và thú vị. Câu thơ này kết thúc cả bài vì vậy nó có khả năng khơi gợi mênh mang cho độc giả. Tuy nhiên nếu chú ý hơn thì nỗi buồn của Huy Cận thực thể hơn, hiện đại hơn nỗi buồn đầy khí vị triết học của Thôi Hiệu. Huy Cận nghĩ đến cái nhà nơi chôn nhau cắt rốn - nơi có cha mẹ anh em xóm làng bầu bạn, nhớ nhà bằng một tấm lòng quê rất thật thà không khệnh khạng kiểu cách.

Với Thôi Hiệu, phải nhờ lớp khói trên sông thì nỗi buồn mới xuất hiện. Còn ở Huy Cận, tuy không hề có khói sóng nhưng người vẫn mượn nó trong tưởng tượng để hướng lòng về chốn quê nhà. Xưa muốn bộc lộ nôi buồn thì phải có ngoại cảnh. Nay các nhà Thơ mới không cần đến cái ngoại cảnh ấy cũng tê tái một nỗi buồn. Như nỗi buồn tiễn đưa của Thâm Tâm.

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng.

Trong “thế giới” nhà thơ không cần mượn tói khói sóng trên sông bởi vì lòng nhà thơ đã có sẵn nỗi nhớ nhà kín đáo thiết tha. Mặc dù phủ định khói hoàng hôn và chính nhờ cách đó nhà thơ đã đưa khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ để làm tăng nỗi buồn nhớ của nhà thơ, của người xa quê trước cảnh tràng giang.

C - KẾT LUẬN

Cảnh hoàng hôn tràng giang tuy có buồn, vắng nhưng là một bức tranh đẹp bởi được vẽ bằng một ngòi bút có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước. Từ đó mới có những hình ảnh thật quen thuộc gần gũi với người Việt Nam: một dòng sông mênh mông, một con thuyền xuôi dòng, một cành củi khô, một bến bờ xa vắng, một buổi chiều chợ tan... có cái gì như là hồn dân tộc, hồn đất nước quê hương thấm sâu trong từng cảnh vật giản dị nhưng gợi cảm ấy. Mặt khác Huy Cận gợi sâu nỗi buồn cô đơn để phủ nhận mà để biểu hiện niềm khát khao có được sự thân mật, sự hòa hợp gần gũi giữa những người với người trong tình người tình đất nước.

26 tháng 3 2021

Bạn tham khảo nhé:

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.

 

Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mỹ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.

 

Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:

“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.

 
26 tháng 3 2021

e cảm ơn ạ

15 tháng 3 2021

Nhà thơ Thế Lữ đã từng có nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục tối tân”, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cứ mỗi độ xuân về, trái tim non của những thế hệ trẻ lại rung lên với cảm xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt trước lời ru yêu đời mà thấm thía của Xuân Diệu. Một trong những lời ru yêu đời thấm thía ấy được gửi gắm qua tác phẩm “Vội vàng” – một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Diệu. Cả bài thơ là niềm yêu đời mãnh liệt, lòng ham sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Đến với 13 câu đầu trong “Vội vàng”, chúng ta sẽ thấy rõ được ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất. Rút ra từ tập “Thơ thơ”, Vội vàng là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ: Tôi muốn tắt nắng đi màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghĩa là Xuân Diệu muốn mãi mãi một mùa xuân tuyệt vời. Ham muốn, khát vọng của thi sĩ thật vô cùng lãng mạn. Phải là một hồn thơ yêu đời ham sống mãnh liệt đến vô bờ mới có những ham muốn bồng bột, táo bạo ấy. Là một nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, say mê cuộc đời bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, ngơ ngác và đầy vui sướng, Xuân Diệu đã phát hiện ra bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính là mùa xuân và tuổi trẻ: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cưa Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần! Từ những câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, khúc thơ bất ngờ chuyển sang những câu thơ tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc: điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc, liệt kê, so sánh. Âm điệu thơ sôi nổi, háo hức cuồn cuộn như dòng thác dâng trào. Phép liệt kê và điệp ngữ “này đây” lặp lại liên tiếp trong năm câu thơ vừa gợi cái từng bừng rạo rực của thiên nhiên vừa diễn tả niềm hân hoan, vui sướng tột độ của thi sĩ. Điệu thơ như tiếng rao vu, ngỡ ngàng sung sướng. Có cái gì như vội vàng quấn quýt, có cái gì như đắm đuối mê say. Nhà thơ như muốn nói trong cử chỉ vội vàng, trong nhịp điệu dồn dập rằng: Mọi vẻ đẹp tuyệt vời kì diệu của mùa xuân và sự sống là của chúng ta đang trong vòng tay ta, lại còn chần chừ gì nữa mà không mau tận hưởng. Với nhiều người, mùa xuân là mùa tuyệt diệu nhất trong năm. Bởi thế có cả một dòng xuân bất tận và quyến rũ trong thơ ca. Có thể kể ra đây “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Mưa xuân (Nguyễn Bính), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) nhưng hiếm có mùa nào lộng lẫy sắc hương và rạo rực xuân tình như mảnh vườn xuân trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Và cũng hiếm có thi sĩ nào say mê, đắm đuối vẻ đẹp mùa xuân như Xuân Diệu. Mùa xuân hiện ra với những thảm cỏ biếc rời mơn mởn, lá non cành tơ phơ phất, hoa nõn nà khoe sắc dâng hương, trao mật ngọt ong bướm đắm say, ái ân tình tự giữa tuần tháng mật, yến anh quấn quýt bên nhau cùng cất lên khúc tình say đắm. Và mỗi sớm ban mai của mùa xuân mới thật lộng lẫy quyến rũ: Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa Trong trí óc non nớt ngây thơ của trẻ con, bình minh là lúc ông mặt trời thức dậy vén màn mây bước ra nhoẻn miệng cười thật tươi. Con trong hình dung của Xuân Diệu - nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới, bình minh là lúc nữ thần mặt trời choàng tỉnh dậy sau giấc mộng êm đềm chớp chớp hàng mi. Muôn ngàn tia sáng lung linh huyền ảo từ đôi mắt ấy buông tỏa xuống trần gian tưới nhựa sống dào dạt cho muôn loài, trao niềm vui, gõ cửa mỗi nhà. Thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu là đúng: “Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất” Hoặc có khi ông khao khát đến cháy bỏng: “Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời Kẻ đựng trái tim trìu máu đất Hai tay chín móng bám vào đời” Với Xuân Diệu, mỗi ngày sống là một ngày vui, mỗi mùa xuân là một mùa vui bất tận. Không phải đây là lần đầu tiên và duy nhất, vẻ đẹp của ánh sáng hiện ra lộng lẫy và kiêu sa như vậy. Trong “Trường ca” và “Rạo rực”, Xuân Diệu cũng lấy vẻ đẹp của người thiếu nữ để ví von, so sánh như thế: Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đẹp (Trường ca) Mặt trời vừa mới cưới trời xanh Duyên đẹp hôm nay đã tốt lành Son sẻ trời như mười sáu tuổi Má hồng phơn phớt mắt long lanh (Rạo rực) Cách cảm nhận vẻ đẹp của ánh mặt trời mùa xuân thật lạ, thật gợi cảm nhưng lại nhất phải kể đến hình ảnh ”Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Có thể nói thơ Việt chưa bao giờ có cách cảm nhận mới lạ như thế này. Thường thấy tháng Giêng đẹp, ngày xuân vui chứ chưa bao giờ thấy ai cảm nhận là ngon như Xuân Diệu. Vẻ đẹp của tháng Giêng được thi sĩ cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn bằng cả vị giác, xúc giác và bằng cả tâm hồn yêu đời, khát sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Ta thấy ở đây có dấu vết của phép tương giao trong thơ tượng trưng Pháp. Đó là màu sắc rất Tây của thơ Xuân Diệu. Chưa hết, thi sĩ còn so sánh độc và lạ gợi nhiều thú vị liên tưởng cho người đọc. Tháng Giêng ngọt ngào mê đắm như nụ hôn tình ái. Như một thước phim sống động, khúc thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân vô cùng độc đáo và lộng lẫy: rộn rã những âm thanh tình tứ, rực rỡ ánh sáng tinh khôi, nồng nàn hương thơm sắc thắm và ngọt ngào men say ái tình. Mùa xuân có khác nào một thiên đường trên mặt đất, rạo rực sức sống, một mảnh vườn tình ái mà vạn vật đang đua nhau khoe sắc dâng hương, đắm đuối xuân tình. Như vậy, đọc những câu thơ mở đầu của “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái yêu đời đến cuồng nhiệt, cái khát sống đến bồng bột, mãnh liệt của Xuân Diệu. Quả không sai khi nói ông là nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới.

15 tháng 3 2021

Bạn tham khảo nhé:

Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới thời bấy giờ, với hồn thơ đại diện cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu có sự tinh tế, gợi cảm, độc đáo từ chất liệu đến bút pháp thi ca. "Vội vàng" là một trong những bài thơ hay nhất mà nhà thơ dành tặng cho thế gian này. Bài thơ là một nguồn cảm xúc trào dâng, là tuyên ngôn sống của một con người khao khát yêu đời. Cùng phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng để thấy rõ hơn tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của tác giả với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận ngay được luồng khí vui tươi, sôi nổi. Ở đây, tác giả như muốn đoạt quyền tạo hóa.

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Sử dụng điệp ngữ "tôi muốn" cùng với thể thơ ngũ ngôn có tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện cái ước muốn mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt nắng để "màu đừng nhạt mất", buộc gió để "hương đừng bay đi". Nhà thơ muốn níu giữ thời gian để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời xuân của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp mãi tỏa sắc lên hương. Có thể nói đây là ước muốn phi lý của một tâm hồn yêu đời với thái độ trân trọng, nâng niu và giữ gìn.

Những câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ. Đồng thời thể hiện khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của nhà thơ.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Như lời mời gọi, điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần ở đoạn thơ trên, vừa nói lên sự giàu có, phong phú của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. "Này đây" là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời trần thế ngay trong lúc này, gần gũi ngay trước mắt chứ không phải xa xôi, không phải ở tương lai hay quá khứ, lại càng không phải ở kiếp khác.

Điệp từ "của" mang tính chất kết nối khiến câu thơ trở lên mới lạ hơn. Sau từ "của" bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế được thể hiện thật rõ nét, khu vườn xuân cũng là khu vườn tình yêu ngập tràn ái ân hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng trao gửi sắc hương, khiến lòng người ngất ngây.

Nhà thơ luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương cũng trở thành mùa vui của bướm ong dập dìu, cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành khúc tình si, say đắm lòng người và ánh sáng xuân lướt qua hàng mi diễm lệ của người đẹp kiều diễm.

Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa

Với tâm hồn bay bổng và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã tạo ra sự bất ngờ đầy thú vị bởi liên tưởng hết sức độc đáo. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi lên hình tượng mặt trời hoặc cũng có thể là một vị thần mang niềm vui ban tặng cho thế gian vào mỗi sớm ban mai, đánh thức mọi người bằng những niềm vui để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được ngắm nhìn ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hạnh phúc ngập tràn.

Tiếp nối niềm hân hoan vui sướng đó, thi sĩ đã viết tiếp câu thơ đầy sự tinh tế:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Đây là câu thơ mới mẻ, hiện đại, thể hiện được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói Xuân Diệu là người đầu tiên "tỏ tình" với thiên nhiên. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với "cặp môi" căng tràn tươi trẻ và quyến rũ. Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, nhà thơ đã huy động mọi giác quan: từ thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác để tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc đời này. "Tháng giêng" là một khái niệm thời gian vô hình, được tác giả so sánh với cặp môi gần đầy táo bạo đã trở nên trẻ trung hữu hình. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Câu thơ bị ngắt làm hai, thể hiện niềm vui không trọn vẹn. Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Đang thỏa thuê trong bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên "tôi sung sướng" sau đó ngừng lặng với cảm giác "vội vàng một nửa". Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng.

Hai câu thơ như cánh cửa khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say trong vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu vừa có linh cảm bất an, lo lắng của nhà thơ. Lo lắng vì thời gian qua mau, tuổi trẻ đã đi thì sẽ không trở lại. Qua đây, phải nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian, không gian.

Qua phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng, chúng ta nhận ra rằng Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thiên đường không đâu xa mà chính là cuộc sống giữa thiên nhiên tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.

28 tháng 4 2021

 

TK:

Bài thơ Từ Ấy được in trong phần Máu Lửa của tập thơ " Từ Ấy ". Được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, bài thơ viết về một sự kiện có ý nghĩa làm nên bước ngoặt lớn trong đường đời và đường thơ của Tố Hữu - Giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng.

Đi vào giải thích câu nói : Nói thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị có nghĩa là những sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn với Đất Nước, với cá nhân, làm thay đổi cả một đời người đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ Tố Hữu. cái chất trữ tình cùng cảm xúc chân thành của nhà thơ quyện vào nhau, làm nên những vần thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Cách Mạng.

Bài thơ " Từ Ấy" là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng ấy đã làm nên sự thay đổi kì diệu về nhận thức, lí tưởng của một hồn thơ thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân..

Đến với khổ thơ mở đầu, ta bắt gặp cảm xúc vui sướng, hạnh phúc, say mê của hồn thơ Tố Hữu khi lần đầu tiên bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Một nguồn cảm xúc thiêng liêng và chân thành xuất phát từ chính trái tim của nhà thơ. Đây cũng là xúc cảm tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."

Ngay từ câu thơ mở đầu đã bắt gặp hình ảnh " Từ Ấy " đã đem lại sự ấn tượng và khẳng định một lần nữa khoảng time mà nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng. Nói lên cảm xúc của mình trước những giây phút thiêng liêng như thế, nhà thơ sử dụng các thử pháp nghệ thuật : so sánh, ẩn dụ và nhân hoá.. hình ảnh " nắng hạ " cho ta thấy được một cái ánh nắng chói chang gay gắt của buổi trưa hè. Khác với nhiều nhà thơ khác luôn tìm đến ánh trăng, tới cái ánh nắng của buồi chiều sa thì Tố Hữu tìm đến cái nắng của mùa hạ. Đúng vậy, cũng chỉ có ánh nắng ấy mới toả được sự chói chang rực rỡ của lí tưởng cách mạng, mới diễn tả được hết sự sửng sốt và choáng váng của nhà thơ khi đứng trước cái lí tưởng rực rỡ như thế.Soi tỏ vào bài thơ này ta mới thấy hết được nguồn cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước ánh sáng huy hoàng của chân lý.

"Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng "

Và dường như như thế chưa đủ để nói lên sự toả sáng của " lí tưởng cách mạng " nhà thơ lại tìm đến hình ảnh " Mặt trời chân lí ", đó chính là biểu tượng cho lí tưởng mà nhà thơ theo đuổi. Hình ảnh mặt trời biểu hiện cho sự ấm nóng, rực rỡ và là nguồn sáng bất diệt. Đúng vậy, lí tưởng ấy đâu phải chí toả sáng trong phút chốc mà sẽ toả sáng bất diệt, là nguồn sáng vĩnh cửu, không gì có thể dập tắt nổi. Tố Hữu gọi lí tưởng cách mạng là mặt trời chân lí bởi đó chính là nguồn sáng dẫn đường cho cuộc đời đã từng tối tăm, mù mịt của nhà thơ khi " băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời "... Mặt trời chân lý ấy " chói " qua tim người nghệ sĩ . hình ảnh trái tim là nơi chứa đựng biết bao tình cảm , cảm xúc, là nơi kết hợp giữa tâm lí và ý thức trí tuệ " mặt trời chân lí chói qua tim giống như xuyên rọi qua tất cả những tình cảm, lí tưởng của nhà thơ và cũng chỉ khi được ánh sáng ấy chiếu rọi nhà thơ mới thực sự hành động đúng, mới cảm thấy được ý nghĩa của cuộc sống mình.

Chính ánh sáng chói chang rực rỡ ấy đã làm thay đổi cuộc đời, thay đổi cả tình cảm của nhà thơ:

" Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.."

Khác hẳn với hồn thơ khi nhà thơ còn chưa bắt gặp ánh sáng lí tưởng, hồn thơ của Tố Hữu bây giờ rạo rực, vui sướng đến nỗi được so sánh với hình ảnh " vườn hoa " -> vườn hoa đầy đủ sắc màu, tràn ngập những âm thanh của tiếng chim, mùi hương của hoa lá... Đúng vậy, tâm trạng của nhà thơ đang tràn ngập rất nhiều cảm xúc ; có cái ngất ngây, say mê trước "hương thơm" của lí tưởng cách mạng, có cái rộn ràng, rạo rực vui sướng như tiếng chim kia.... Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh , cũng các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ so sánh và đặc biệt là lối vắt dòng từ câu thứ ba xuống câu thứ tư đã góp phần lớn trong việc biểu hiện cảm xúc của mình.

“Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.


 

18 tháng 9 2021

Hai câu nào bạn nhỉ??

18 tháng 9 2021

Lấy hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận, hai câu kết á bạn. Hai câu nào cx đc hết. 

19 tháng 12 2020

Tham khảo:

Nam Cao viết văn từ những năm 30 cuả thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.

Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…

 

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khitrời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót...Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo... Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.

 

Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?

 

Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương thiện.

Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không con hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.

 

Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyêt liệt khiến Chí đi đén một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.

 

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 – 1945.