Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
HƯỚNG DẪN
Độ cao địa hình núi đã dẫn đến nhiệt độ giảm theo độ cao cùng với sự thay đổi về độ ẩm và lượng mưa ở miền núi, từ đó ở nước ta có 3 đai cao ở những độ cao khác nhau có đặc điểm sinh vật khác nhau.
- Đai nhiệt đới gió mùa
+ Ớ miền Bắc, đai có độ cao trung bình dưới 600 - 700m, ở miền Nam lên đến độ cao 900 - 1000m.
+ Sinh vật gồm các hệ sinh thái nhiệt đới:
• Hệ sinh thái nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh hình thành ở những vùng đồi núi thấp mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, mùa khô không rõ. Rừng có cấu trúc nhiều tầng với 3 tầng cây gỗ, có cây cao tới 30 - 40m, phần lớn là các loài cây nhiệt đới xanh quanh năm. Giới động vật nhiệt đới trong rừng đa dạng và phong phú.
• Các hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa: rừng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng thưa nhiệt đới khô. Trên các loại thổ nhưỡng đặc biệt có các hệ sinh thái rừng thường xanh trên đá vôi; rừng ngập mặn trên đất mặn ven biển; rừng tràm trên đất phèn; xavan, cây bụi gai nhiệt đới khô trên đất cát, đất xám vùng khô hạn.
- Đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi
+ Ở miền Bắc, đai có độ cao từ 600 - 700m đến 2600m; ở miền Nam từ 900 - 1000m đến 2600m.
• Ở độ cao từ 600 - 700m đến 1600 - 1700m, có hệ sinh thái rừng cận nhiệt đới lá rộng và lá kim.
• Ở độ cao trên 1600 - 1700m, rừng sinh trưởng kém, thực vật thấp nhỏ, đơn giản về thành phần loài; rêu, địa y phủ kín thân, cành cây. Trong rừng có các loài chim di cư thuộc khu hệ Himalaya.
- Đai ôn đới gió mùa trên núi
+ Độ cao từ 2600m trở lên (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn).
+ Có các loài thực vật ôn đới như đỗ quyên, lãnh sam, thiết sam.
HƯỚNG DẪN
Căn cứ vào các bản đồ nhiệt độ và các biểu đồ khí hậu ở Hà Nội, Đồng Hới, TP. Hồ Chí Minh để có dẫn chứng cụ thể cho các nhận xét:
- Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ bắc vào nam. Nguyên nhân do càng về phía nam, càng ít chịu tác động của gió mùa Đông Bắc (ở miền Nam không có gió mùa Đông Bắc) và gần Xích đạo hơn.
- Biên độ nhiệt độ năm giảm dần từ bắc vào nam. Nguyên nhân: về mùa đông: miền Bắc chịu tác động của gió mùa Đông Bắc, nên nhiệt độ hạ thấp; miền Nam gần Xích đạo hơn và mùa đông không chịu lạnh của gió mùa Đông Bắc. Về mùa hạ, nhiệt độ trung bình của cả nước tương đối đồng nhất.
- Vào mùa hạ: Nhiệt độ trung bình năm cả nước tương đối đồng nhất, cao hơn một ít ở Duyên hải miền Trung và đồng bằng Bắc Bộ. Nguyên nhân chủ yếu do tác dộng của gió phơn Tây Nam ở các khu vực này làm cho nền nhiệt độ cao hơn, còn trong phạm vi cả nước, nhiệt độ tăng theo hướng kinh tuyến từ bắc vào nam không lớn.
- Vào mùa đông: Nền nhiệt độ ở miền Bắc hạ thấp, nhất là ở khu vực Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ do chịu tác động mạnh trực tiếp của gió mùa Đông Bắc, và ở các khu vực núi cao Tây Bắc do ảnh hưởng của độ cao.
- Tháng cực đại nhiệt độ ở Bắc Bộ và Trung Bộ là tháng VII (chế độ nhiệt của các nơi gần chí tuyến Bắc), ở Nam Bộ là tháng IV (chế độ nhiệt của những nơi gần Xích đạo).
- Ở phía bắc, trong năm có một cực đại về nhiệt độ do hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh gần nhau, ở phía nam có hai cực đại về nhiệt độ do hai lần Mật Trời lên thiên đỉnh xa nhau.
HƯỚNG DẪN
Căn cứ vào các bản đồ nhiệt độ và các biểu đồ khí hậu ở Điện Biên và Lạng Sơn; Nha Trang và Đà Lạt để có dẫn chứng cụ thể cho các nhận xét:
- Giữa Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ
+ Nhiệt độ trung bình năm của Tây Nguyên thấp hơn ở Duyên hải Nam Trung Bộ do Duyên hải Nam Trung Bộ ở độ cao thấp hơn và chịu tác động của gió phơn Tây Nam khô nóng về mùa hạ.
+ Biên độ nhiệt độ năm của Tây Nguyên thấp hơn ở Duyên hải Nam Trung Bộ, do ở Duyên hải Nam Trung Bộ về mùa đông nhiệt độ không cao hơn ở Tây Nguyên, nhưng mùa hạ có nhiệt độ cao hơn Tây Nguyên do chịu tác động của gió phơn Tây Nam khô nóng.
- Giữa Điện Biên và Lạng Sơn
+ Nhiệt độ trung bình năm ở Điện Biên cao hơn ở Lạng Sơn, biên độ nhiệt độ năm ở Lạng Sơn lại lớn hơn ở Điện Biên.
+ Nguyên nhân do ở Lạng Sơn chịu tác động trực tiếp và mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ về mùa đông thấp hơn nhiều so với Điện Biên. Về mùa hạ nhiệt độ ở cả hai địa điểm tương đối đồng nhất, vì Điện Biên chịu tác động của gió phơn Tây Nam, còn Lạng Sơn cũng chịu hiện tượng phơn do gió Đông Nam gặp cánh cung núi Đông Triều gây nên.
HƯỚNG DẪN
a) Biểu hiện
- Đai nhiệt đới gió mùa (độ cao trung bình 600 - 700m ở miền Bắc và 900 – 1000m ở miền Nam):
+ Hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh hình thành ở những vùng núi thấp mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, mùa khô không rõ.
+ Thực vật phần lớn là các loài cây nhiệt đới xanh quanh năm.
+ Động vật nhiệt đới trong rừng đa dạng và phong phú.
- Đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi (từ 600 – 700m lên đến 2600m ở miền Bắc, từ 900 – 1000m lên đến 2600m ở miền Nam):
+ Từ độ cao 600 - 700m đến 1600 - 1700m có hệ sinh thái rừng cận nhiệt đới lá rộng và lá kim. Trong rừng xuất hiện các loài chim, thú cận nhiệt đới phương Bắc. Các loài thú có lông dày như gấu, sóc, cầy, cáo…
+ Ở độ cao trên 1600 - 1700m rừng phát triển kém, đơn giản về thành phần loài; rêu, địa y phủ kín thân, cành cây. Trong rừng, đã xuất hiện các loài cây ôn đới và các loài chim di cư thuộc khu hệ Himalaya.
- Đai ôn đới gió mùa trên núi (có độ cao từ 2600m trở lên, chỉ có ở Hoàng Liên Sơn); có các loài thực vật ôn đới như đỗ quyên, lãnh sam, thiết sam.
b) Giải thích
- Sự phân hóa sinh vật thành ba đai cao khác nhau do tác động trực tiếp của khí hậu; ngoài ra do tác động của độ cao địa hình thông qua khí hậu.
+ Khí hậu: sự thay đổi tương quan nhiệt ẩm theo độ cao đã tạo ra ba đai với khí hậu khác nhau. Đai nhiệt đới chân núi biểu hiện rõ rệt khí hậu nhiệt đới, mùa hạ nóng (nhiệt độ trung bình tháng trên 25°C); độ ẩm thay đổi tùy nơi từ khô đến ẩm ướt. Đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi khí hậu mát mẻ, không có tháng nào nhiệt độ trên 25°C, mưa nhiều hơn, độ ẩm tăng. Khí hậu ở đai ôn đới gió mùa trên núi có tính chất ôn đới, quanh năm nhiệt độ dưới 15°C, mùa đông xuống dưới 5°C.
+ Địa hình đồi núi phân hóa thành ba đai cao với khí hậu khác nhau, từ đó có sự khác nhau về sinh vật.
HƯỚNG DẪN
a) Khác nhau về nhiệt độ
- Căn cứ vào các bản đồ nhiệt độ, biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa ở các địa điểm thuộc vùng khí hậu Tây Nguyên và vùng khí hậu Nam Trung Bộ để tìm các dẫn chứng về sự khác nhau của hai vùng khí hậu về nhiệt độ trung bình năm; nhiệt độ trung bình tháng cao nhất, thấp nhất; biên độ nhiệt độ trung bình năm; biên trình nhiệt năm (có một cực đại hay hai cực đại, các tháng có nhiệt độ thấp/ cao bất thường...).
- Căn cứ vào các nhân tố tác động đến chế độ nhiệt để giải thích (vị trí địa lí và lãnh thổ, hoàn lưu khí quyển, địa hình với tác động trực tiếp và gián tiếp thông qua sự phối hợp với gió mùa); trong đó cần chú trọng hệ quả gây ra do phối hợp của gió mùa với hướng địa hình (gây phơn khô nóng ở sườn khuất gió); gió mùa đông và độ cao địa hình ở hai khu vực.
b) Khác nhau về mưa
- Căn cứ vào các bản đồ lượng mưa, biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa ở các địa điểm thuộc vùng khí hậu Tây Nguyên và vùng khí hậu Nam Trung Bộ để tìm các dẫn chứng về sự khác nhau của hai vùng khí hậu về lượng mưa trung bình năm (tổng lượng mưa năm), tháng mưa cực đại, sự phân mùa mưa, khô.
- Căn cứ vào các nhân tố tác động đến chế độ mưa để giải thích (vị trí địa lí và lãnh thổ, hoàn lưu khí quyển, địa hình với tác động trực tiếp và gián tiếp thông qua sự phối hợp với gió mùa); trong đó cần chú trọng hệ quả gây ra do phối hợp của gió mùa với hướng địa hình (gây phơn khô nóng ở sườn khuất gió, gây mưa lớn ở sườn đón gió); một số vị trí ít mưa ở Nam Trung Bộ do ở vị trí địa lí khuất gió/song song với hướng gió...
HƯỚNG DẪN
- Địa hình nước ta phân hóa thành 3 đai cao: nhiệt đới chân núi, cận nhiệt đới gió mùa trên núi, ôn đới trên núi.
- Mỗi đai có đặc điểm riêng về khí hậu, đất đai và sinh vật.
- Trình bày về các đặc điểm của khí hậu, đất đai, sinh vật ở mỗi đai cao.
HƯỚNG DẪN
a) Chế độ nhiệt
- Nhiệt độ trung bình năm ở Nha Trang cao hơn ở Đà Lạt, do Nha Trang ở độ cao thấp (dưới 200m) hơn rất nhiều so với Đà Lạt (trên 1500m).
- Nhiệt độ tháng cao nhất ở Nha Trang là tháng VI, ở Đà Lạt là tháng V, tương ứng với thời gian Mặt Trời lên thiên đỉnh ở mỗi địa điểm.
- Biên độ nhiệt ở Nha Trang lớn hơn (khoảng 4,8°C) Đà Lạt (khoảng 4,0°C). Nguyên nhân chủ yếu do ở Nha Trang về mùa hạ có gió phơn Tây Nam khô nóng, mùa đông nhiệt độ hạ thấp do gió Đông Bắc qua biển tác động vào. Ở Đà Lạt, mùa hạ nhiệt độ hạ thấp do có mưa, mùa đông không lạnh lắm so với mùa hạ.
- Diễn biến nhiệt trong năm có sự khác nhau: Đà Lạt ở vào vĩ độ địa lí thấp hơn, trong năm có lần Mặt Trời lên thiên đỉnh xa nhau, nên có hai cực đại về nhiệt. Nha Trang có một cực đại và một cực tiểu về nhiệt tương ứng với hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh gần nhau hơn.
b) Chế độ mưa
- Tổng lượng mưa năm ở Đà Lạt lớn hơn ở Nha Trang. Nguyên nhân:
+ Đà Lạt ở độ cao lớn hơn, đồng thời đầu mùa có mưa do gió Tây Nam TBg xâm nhập trực tiếp, giữa và cuối mùa có mưa do tác động của gió mùa Tây Nam.
+ Ở Nha Trang, đầu mùa chịu tác động của gió Tây Nam TBg khô nóng sau khi vượt Trường Sơn Nam tràn xuống; giữa và cuối mùa có mưa do gió mùa Tây Nam, nhưng không phải là sườn đón gió như ở phía Đà Lạt. Tác động của gió Đông Bắc gặp dãy Trường Sơn, áp thấp và bão gây mưa nhiều trong các tháng thu đông, nhưng tổng lượng mưa cả năm vẫn nhỏ hơn ở Đà Lạt.
- Tháng mưa cực đại ở Nha Trang là tháng X, do tác dộng cùng lúc của dải áp thấp nhiệt đới, gió mùa Đông Bắc gặp địa hình núi chắn gió, áp thấp và bão. Ở Đà Lạt là vào tháng VII, thởi gian có tác động mạnh của gió mùa Tây Nam.
HƯỚNG DẪN
- Sông ngòi Bắc Bộ
+ Mùa lũ từ tháng VI - X (5 tháng), trừng với thời gian mùa mưa (tháng V - X).
+ Đỉnh lũ là tháng VIII, trùng với đỉnh mưa.
+ Lũ tập trung nhanh và kéo dài, do các sông ở đây có dạng nan quạt (Ví dụ: sông Hồng với các phụ lưu là sông Lô, sông Đà; một số sông nhánh chảy giữa các cánh cung núi, quy tụ về đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng); một số sông ở Đông Bắc thường có độ dốc nhỏ.
- Sông ngòi Trung Bộ
+ Mùa lũ từ tháng IX - XII (4 tháng), trùng với thời gian mùa mưa (tháng VIII -1).
+ Đỉnh lũ là tháng XI, trùng với đỉnh mưa.
+ Lũ lên nhanh và đột ngột, do sông ngắn và dốc, lưu vực nhỏ và độc lập.
- Sông ngòi Nam Bộ
+ Mùa lũ từ tháng VII - XI (5 tháng), trùng với thời gian mùa mưa (tháng V - XI).
+ Đỉnh lũ là tháng IX, trùng với đỉnh mưa.
+ Lũ điều hòa hơn sông ngòi Bắc Bộ, do lòng sông rộng và sâu, ảnh hưởng của thủy triều lớn. Ngoài ra, sông Tiền, sông Hậu (đoạn cuối của sông Mê Công chảy vào nước ta) có hình lông chim và được điều hòa nước bởi Biển Hồ ở Campuchia.
HƯỚNG DẪN
Nhiều loại đồng bằng khác nhau: đồng bằng châu thổ sông (Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long), đồng bằng ven biển, đồng bằng giữa núi. Khác nhau về địa hình:
a) Đồng bằng sông Hồng
- Do phù sa của hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình bồi tụ tạo nên.
- Hình dạng tam giác châu, đỉnh là Việt Trì, đáy Hải Phòng - Ninh Bình.
- Diện tích khoảng 15 nghìn km2; độ cao khoảng 5 – 7m.
- Hướng nghiêng: tây bắc - đông nam (địa hình cao ở rìa phía tây và tây bắc, thấp dần ra biển).
- Ở giữa đồng bằng trũng thấp, bề mặt bị chia cắt thành nhiều ô với hệ thống đê sông (dài hơn 3000 km). Xung quanh rìa đồng bằng cao hơn, có một số núi sót nhô cao (rìa phía tây bắc và tây nam tiếp giáp với vùng trung du, ra phía biển có các thềm sông, thềm biển).
b) Đồng bằng sông Cửu Long
- Do phù sa của sông Tiền và sông Hậu bồi tụ phù sa tạo thành.
- Hình dạng tương tự một tứ giác.
- Diện tích khoảng 40 nghìn km2; độ cao khoảng 2 - 4 m.
- Chia thành ba khu vực, có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt:
+ Phần thượng châu thổ: tương đối cao (2 - 4 m so với mực nước biển), ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng rộng lớn, ngập sâu dưới nước vào mùa lũ, mùa khô là những vũng nước tù đứt đoạn (Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên). Dọc sông Tiền và sông Hậu là dải đất phù sa ngọt tương đối cao.
+ Phần hạ châu thổ: thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thủy triều và sóng biển. Mực nước ở các cửa sông lên xuống rất nhanh và những lưỡi mặn ngấm dần trong đất. Trên bề mặt với độ cao 1 - 2 m, ngoài các giồng đất ở hai bên bờ sông và các cồn cát duyên hải, còn có các vùng trũng ngập nước vào mùa mưa và các bãi bồi ven sông.
+ Phần nằm ngoài tác động trực tiếp của sông Tiền và sông Hậu: vẫn được cấu tạo bởi phù sa sông (như đồng bằng Cà Mau, một số nơi tiếp giáp với Đông Nam Bộ).
c) Dải đồng bằng Duyên hải miền Trung
- Do trầm tích biển là chủ yếu kết hợp với phù sa sông bồi lấp vào các đứt gãy tạo nên.
- Diện tích khoảng 15 nghìn km2.
- Phần nhiều hẹp ngang và bị chia cắt thành nhiều đồng bằng nhỏ: - Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Bình Định và các đồng bằng ven biển cực Nam Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận)
- Chỉ có một số đồng bằng được mở rộng ở cửa sông lớn (đồng bằng Thanh Hóa của hệ thống sông Mã - Chu, đồng bằng Nghệ An với sông Cả, đồng bằng Quảng Nam với sông Thu Bồn và đồng bằng Tuy Hòa với sông Đà Rằng).
- Ở nhiều đồng bằng thường có sự phân chia thành 3 dải: giáp biển là cồn cát, đầm phá; giữa là vùng thấp trũng; dải trong cùng đã được bồi tụ thành đồng bằng.
d) Các đồng bằng giữa núi
- Nằm giữa các vùng núi Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Nam... (Mường Thanh, Than Uyên, Nghĩa Lộ, Trùng Khánh, An Khê...).
- Đặc điểm chung là nhỏ hẹp, thường là thung lũng tương đối bằng phẳng nằm giữa các vùng núi; một số nơi chủ động được nguồn nước tưới có thể sử dụng để trồng lúa.
HƯỚNG DẪN
Độ cao địa hình núi đã dẫn đến nhiệt độ giảm theo độ cao cùng với sự thay đổi về độ ẩm và lượng mưa ở miền núi, từ đó hình thành các vành đai ở những độ cao khác nhau có đặc điểm đất khác nhau. Ở nước ta, theo độ cao có 3 vành đai.
- Đai nhiệt đới gió mùa
+ Ở miền Bắc, độ cao trung bình dưới 600 - 700m, ở miền Nam lên đến độ cao 900- 1000m.
+ Trong đai này có hai nhóm đất:
• Nhóm đất phù sa: Chiếm gần 24% diện tích đất tự nhiên cả nước, bao gồm: đất phù sa ngọt, đất phèn, đất mặn, đất cát...
• Nhóm đất feralit vùng đồi núi thấp: Chiếm hơn 60% diện tích đất tự nhiên cả nước, phần lớn là đất feralit đỏ vàng, đât feralit nâu đỏ phát triển trên đá mẹ badan và đá vôi.
- Đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi
+ Ở miền Bắc, đai có độ cao từ 600 - 700m đến 2600m; ở miền Nam từ 900 - 1000m đến 2600m.
• Ở độ cao từ 600 - 700m đến 1600 - 1700m, có đất feralit có mùn với đặc tính chua, quá trình phong hóa yếu nên tầng đất mỏng.
• Ở độ cao trên 1600 - 1700m, quá trình feralit ngừng trệ, hình thành đất mùn.
- Đai ôn đới gió mùa trên núi
+ Độ cao từ 2600m trở lên (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn).
+ Đất ở đây chủ yếu là đất mùn thô.