Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé:
Chữ "Tâm" mà Nguyễn Du nói đến là tấm lòng của người nghệ sĩ đối với con người, với cuộc đời. ( Người nghệ sĩ nhận thức cuộc sống, trăn trở, cảm thấy cuộc đời thôi thúc mình cầm bút viết ra những suy nghĩ, nỗi niềm, và khi ấy, người nghệ sĩ đã đặt vào trang viết của mình cả trái tim, cả tấm lòng ...)Cái tâm được biểu hiện rất nhiều khía cạnh: thái độ trân trọng, đề cao giá trị con người; đó là nỗi trăn trở, đau đáu, khắc khoải trước nhân tình thế thái; đó là sự đồng cảm, xót thương cho những kiếp đời bất hạnh; đó là niềm mong ước một cuộc sống tốt đẹp cho con người ...Cái tâm của người nghệ sĩ chính là điều góp phần tạo nên giá trị nhân văn lớn lao cho một tác phẩm .Câu thơ của Nguyễn Du còn khẳng định cái tài của nhà văn, nhà thơ là rất đáng trân trọng, nhưng cái tâm vẫn nên đặt cao hơn cái tài.Trong Truyện Kiều, cái tâm của Nguyễn Du được thể hiện sâu sắc, thấm thía. Cái tâm ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm và làm nên tầm vóc vĩ đại của Nguyễn Du.
BT1 :
-Ngôn ngữ gợi tả, sử dụng biện pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, dùng điển cố....
-Thành công ở nghệ thuật ước lệ tượng trưng ( chị em thúy kiều) , tả cảnh ngụ tình ( kiều ở lầu ngưng bích )
-Trong thời văn học trung đại , Nguyễn Du đã bt sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm -> sự tiến bộ vượt bậc
-Sử dụng thể thơ lục bát đầy sáng tạo
-Lời thơ mang nhiều tầng nghĩa sâu sắc
Gợi ý.
I. Mở bài. Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhận định.
II. Thân bài.
1. Giải thích
- Thế giới nội tâm nhân vật là việc tác giả dùng điểm nhìn toàn tri, người viết có thể nhìn thấu tâm can và hiểu được tâm trạng của nhân vật. Đây là điểm mới, sáng tạo của Nguyễn Du trong sáng tác văn học bởi đặc trưng trong cách kể của văn học trung đại vẫn là lối kể biên niên - theo trình tự thời gian, điểm nhìn của người ngoài cuộc.
- Tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân vật: đây là nhận định hoàn toàn đúng. Bởi thông qua thế giới nội tâm, tính cách và phẩm chất nhân vật được bộc lộ. Mà nhân vật chính là phương diện để nhà văn thể hiện tư tưởng và tài năng của mình.
- Trong tác phẩm Truyện Kiều, tài năng của Nguyễn Du là tả cảnh ngụ tình, nhà thơ có những đoạn viết tuyệt khéo về bức tranh thiên nhiên, bên cạnh đó còn đi sâu vào khám phá và bộc lộ thế giới nội tâm của nhân vật. Đặc biệt, qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ta phần nào sáng tỏ được điều ấy.
2. Chứng minh
a. Đoạn trích đã thể hiện được tâm trạng của Kiều nhớ Kim Trọng, nhớ cha mẹ.
(Phân tích đoạn: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân... Có khi gốc tử cũng vừa người ôm".
=> Tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm trạng của nhân vật khi mà để Kiều nhớ tới người yêu trước rồi mới nhớ tới cha mẹ. Bởi Kiều bán mình, đã hi sinh chữ tình để làm trọn chữ hiếu. Bởi vậy khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn canh cánh trong lòng vì đã phụ tình chàng Kim, là người bội ước lời thề nguyền trăm năm.
b. Đoạn trích đã thể hiện được nội tâm của Kiều khi nàng lo và buồn đau cho cuộc đời của chính mình
(Phân tích 8 câu cuối)
=> Điệp từ "buồn trông" cùng các hình ảnh ước lệ đã cho thấy thế giới nội tâm đầy ngổn ngang, chồng chất những tâm sự của Kiều. Kiều buồn vì thân phận nhỏ bé, xa quê hương, mẹ cha. Kiều đau vì thân phận nhỏ bé bèo bọt hoa trôi. Kiều tủi vì thân phận nhỏ bé, héo úa. Kiều hãi hùng trước sóng gió cuộc đời đang bủa vây lấy "chiếc ghế" định mệnh, cuộc đời mình.
III. KB. Nhận định trên là hoàn toàn đúng. Chỉ qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, vận dụng hàng loạt các hình ảnh ước lệ, điển tích điển cố, ta đã thấy được tài năng và tấm lòng của người cầm bút. Thực sự Nguyễn Du là người có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời khi mà có thể thấu hiểu và bộc lộ được thế giới nội tâm nhân vật đến chân thực và sâu sắc đến như vậy.
Tham khảo:
Nguyễn Du là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành,… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này, mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.
Trong quá trình vận động tư tưởng và tìm cho mình một lối đi, có lúc Nguyễn Du tìm đến đạo Phật, đạo Lão hoặc mơ ước một cuộc đời ẩn dật ở trong núi sâu, tuyệt nhiên không biết đến những gì xảy ra bên ngoài núi . Lại có lúc ông mơ chuyện hành lạc theo kiểu Lý Bạch ngày xưa. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì thành. Nguyễn Du không hề có một cuộc đời hoạt động say sưa vì một lý tưởng; Nguyễn Du cũng không hề tu Phật, tu tiền; chuyện ẩn dật, chuyện hành lạc với Nguyễn Du cũng đều là chuyện hão. Rốt cuộc Nguyễn Du đã triền miên suốt đời trong một không khí buồn chán nặng nề. Tấn bỉ kịch của Nguyễn Du chính là tấn bi kịch của những cuộc đời không tìm ra phương hướng. Chúng ta không trách Nguyễn Du vì ngay giờ đây, mặc dầu lịch sử nhân loại đã chan hòa ánh sáng, trên thế giới vẫn còn không ít những đầu óc thông thái đang quằn quại trong, những cảnh bế tắc không khác gì cảnh bế tắc của Nguyễn Du.
Nhưng nếu trong thơ văn của Nguyễn Du chỉ có buồn chán, chỉ cỏ bế tắc thì thiết tưởng cũng chẳng nên khuấy lên làm gì. Nhất là giữa lúc cuộc sống đang tưng bừng mơ hội và những công việc to lớn đang chờ đợi chúng, ta. Không, đó không phải là phần đáng quý, chẳng những thế, đó là phần nguy hiểm trong thơ văn Nguyễn Du. Phần đáng quý vô cùng ấy là tấm lòng của Nguyễn Du đối với những kiếp người bị đày đọa, Nguyễn Du không ngự trên một cái Bến giác nào để nhìn xuống mỉm cười. Nguyễn Du cùng với chúng sinh cùng chìm trong bể khổ. Nhìn đời, Nguyễn Du băn khoăn, đau xót, day dứt không nguôi. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn ghi lại bao nhiêu cảnh thương tâm.
Đây cảnh một ông già mù đi hát rong ở châu Thái Bình, thuộc tỉnh Quảng Tây. Hôm ấy Nguyễn Du đang đi thuyền, có thuyền bên cạnh gọi ông già xuống hát. Ông già vừa đàn vừa hát. Nguyễn Du không hiểu lời nhưng nghe hát cũng thấy hay. Mọi người chung quanh đều im lặng trong khi gió trên sông thổi vi vu và trăng trên sông soi vằng vặc. Nguyễn Du theo dõi từng cử chỉ của ông già:
Khẩu phún bạch mạt thủ toan súc
Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc
(Miệng xùi bọt mép, tay mỏi rã rời;
Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đàn hát đã xong).
Đàn hát mệt nhọc như thế mà rốt lại chỉ được có năm sáu đồng tiền và tuy chỉ được có năm sáu đồng tiền vẫn không ngớt lời cảm tạ:
Tiều nhi dẫn đắc hạ thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
(Đứa bế đã dẫn ông ra khỏi thuyền
Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng)
Hình dáng ấy của ông già, nhà thơ sẽ không bao giờ quên được. Và hàng trăm năm sau, qua lời thơ, hình dáng ấy vẫn còn hiện lên ảo não trước mắt ta.
Cũng trên đường đi sứ, Nguyễn Du còn ghi lại cảnh những thây người chết đói với những hột táo lọt túi lăn bên mình , cảnh mấy mẹ con bồng, bế nhau, dắt díu nhau thất tha thất thểu dọc đường, làm thuê không đủ sống, đi xin cũng không đủ sống, sớm muộn ắt đến bỏ thây nơi ngòi rãnh. Tuy chỉ là cảnh chợt thấy trên đường đi. trong lòng Nguyễn Du đã cỏ một niềm cảm thông sấu sắc:
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu.
Thiên nhật giai vị hoàng.
(Mẹ chết đã đành rồi,
Trông con thêm đứt ruột.
Nỗi lòng đau đớn lạ thường.
Mặt trời cũng vì người mà vàng úa) .
Tấm lòng của Nguyễn Du trước những cảnh đời cơ cực rất giống tấm lòng của Đỗ Phủ. Đi qua mộ Đỗ Phủ ông từng có thơ viếng và ứa nước mắt khóc nhà thi hào Trung quốc .
Nhưng không phải chỉ trên đường đi sứ Nguyễn Du mới trông thấy những cảnh đau lòng. Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du đã dựng lên cả một thế giới bi thảm với từng đoàn cô hồn nheo nhóc :
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương..
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
Lôi thôi bồng trẻ giắt già.
Thế giới những cô hồn ấy chính là hình ảnh tập trung của những bất trắc, những oan khuất vẫn chồng chất trong cuộc đời thực. Có đủ các loại cô hồn và Nguyễn Du muốn bao dung tất cả trong một thứ tình thương không đẳng cấp. Nhưng tấm lòng của Nguyễn Du vẫn cứ nghiêng về những cuộc đời cay cực nhất, những người lính đã bị chết oan trong các cuộc chiến tranh của vua chúa và giờ đây:
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiểng oan văng vẳng tối trời càng thương,
những người đàn bà xấu số :
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa.
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết các em chết yểu
Kìa những đứa tiểu nhi tâm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế xót xa,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Câu thơ nấc lên như một tiếng khóc. Lòng ưu ái của Nguyễn Du đối với quần chúng và những cảnh sinh hoạt gian nan của quần chúng thấy rất rõ qua Văn chiêu hồn. Nguyễn Du thông cảm với những cảnh đói rét không thể chịu được :
Sống đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô da rét căm căm.
Nguyễn Du thông cảm với những cảnh làm ăn cực khổ, chạy ngược chạy xuôi. Nội một câu
Đòn gánh tre chín dạn hại vai.
cũng đủ nói Nguyễn Du đã đi sâu như thế nào vào những cảnh sống gian nan, vất vả. Nguyễn Du cũng đã vẽ lên một bức tranh rất đau xót về các kiểu chết oan của con nhà kẻ khổ :
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái,
Người thì phải nanh khái ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa say, có người khốn thương.
Rõ ràng đối với cuộc sống lầm thai của quần chúng. Tấm lòng Nguyễn Du vẫn thường áy náy không yên. Càng áy náy không yên trong cảnh riêng mình sung sướng. Hai lần trong bài sở kiến hành và trong bài Thài bình mại ca giả, sau khi thuật lại cảnh đói khổ trông thấy dọc đường đi sứ, Nguyễn Du nhìn lại những yến tiệc linh đình mà chính minh được hưởng trong lòng hết sức băn khoăn. Ta biết Nguyễn Du từng trải qua cảnh đói rét trong nhiều năm. Ngay khi đã ra làm quan với Gia-Long, cảnh nhà ông vẫn nheo nhóc:
Thập khẩu để cơ Hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông.
(Mười miệng ăn kêu đói ở phía bắc Hoành-sơn,
Một mình đau ốm nằm phía đông thành vua.)
Không trải qua những cảnh ấy, không dễ mà có tấm lòng ấy.
Trong vô số những nạn nhân của cuộc đời cũ, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương những người có tài có sắc. Với Nguyễn Du, họ là những hình ảnh tập trung về số kiếp bi đát của con người trong một cuộc đời bế tắc. Ngòi bút của Nguyễn Du đã gợi lên khá nhiều những hình ảnh như vậy. Tiêu biểu nhất là hỉnh ảnh nhân vật Thúy Kiều.
Thúy Kiều là một người tài sắc tuyệt vời. Nhưng nói có tài có sắc ở đây chung qui lại cũng là nói có tình. Bởi vì cái tài của Kiều, cụ thể là tiếng đàn của Kiều, cái sắc của Kiều, cụ thể là cái vẻ mặn mà nồng thắm, trước hết là biểu hiện cái tình. Kiều không phải là người có thể dửng dưng trước mọi việc ở đời mà là người hay động lòng, suy nghĩ. Trong cảnh chơi xuân nô nức, dễ mấy ai để ý đến một nấm mồ vô chủ. Nhưng Kiều đề ý, hỏi han, thắp hương, khấn vái và thương xót không nỡ dời chân. Đến khi nàng yêu thì đó cũng là một thứ tình yêu đấm say, mãnh liệt:
Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê
Yêu nhau, nàng chủ động xây dựng hạnh phúc với người yêu. Gót chân nàng «thoăn thoắt » đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng « xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình » bây giờ đây vẫn còn có thể làm cho một số người ngơ ngác, phân vân. Nhưng thiết tha vời hạnh phúc của minh, nàng lại càng thiết tha hơn nữa với hạnh phúc của người. Trước cái nguy cha em bị bắt, bị đánh đập, có thể bị đánh đập đến chết, nàng không chút ngần ngại, nàng dứt khoát hi sinh :
Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha
Ai không mong cho một con người như vậy được hưởng hạnh phúc Nhưng hạnh phúc nàng toan nắm được trong tay thì cuộc đời cướp mất. Bị đầy đọa vào những cảnh vô cùng ô nhục, giữa vòng vây trùng trùng điệp điệp của một xã hội bất nhân, nàng vẫn cố vùng dây, cố làm chủ lấy đời mình. Nhưng mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần lại bị dúi xuống. bị đạp xuống sâu hơn một tầng nữa. Mà nào nàng có mơ ước chuyện gì cao xa đâu. Cái mơ ước của nàng có khi thật bé nhỏ, thảm hại. Nàng tính tới, tính lui, thậm chi chịu tra tấn đến cực hình để được yên thân làm một người vợ lẽ. Thế mà rồi cũng không xong. Tất cả những cố gắng, những mơ ước lớn nhỏ của nàng đều tan ra như mây khói. Đời nàng không chỉ là một tấn bi kịch mà là một chuỗi dài những bi kịch kế tiếp nhau. Có lúc nàng đã thấy mỏi nhưng rồi nàng lại gắng gượng.
Cứ thế cho đến lúc sau bao nhiêu lần bị vùi dập và trước cảnh bị vùi dập một lần cuối cùng, bất ngờ và đau đớn hơn lần nào hết, nàng thấy mỏi mệt vô cùng không còn có sức nào cưỡng lại nữa. Lúc đó là lúc Từ Hải chết. Đành rằng về sau còn có cảnh đoàn viên. Nhưng một đôi trai gái gặp nhau, yêu nhau giữa lúc đang tuổi thanh xuân, thế rồi xa nhau mười lăm năm trời. Đến khi gặp lại nhau thì người đã có vợ có con, người đã thân tàn hoa tạ. Nàng vui làm sao cho được?
Đời Kiều là một tấm gương oan khổ, một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con người trong xã hội cũ. Dựng lên một con người, một cuộc đời như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề của thời đại. Lời phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương. Một tiếng kêu não nùng, đau đớn, suốt trong quyển truyện không lúc nào không văng vẳng bên tai.
Tiếng kêu thương ấy, Nguyễn Du đã gửi vào thân thể một người đàn bà vì cải cách của xã hội cũ đối với người đàn bà đặc biệt nặng nề, cay nghiệt. Nhưng nói đến một người đàn bà mà thực ra Nguyễn Du đã nói dùm nỗi niềm cho tất cả những người bị đày đọa. Chính vì vậy mà trong hơn một trăm năm qua, hàng trăm vạn người đã xem Truyện Kiều là chuyện của mình và mượn lời thơ của Nguyễn Du làm một tiếng than bi thiết.
Trải qua một cuốc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Câu thơ ấy, đúng như anh Tố Hữu nói, «còn đọng nỗi đau nhân tình». Nỗi đau của hàng vạn vạn kiếp sống lầm than, cơ cực.
Vận mệnh của con người, đó là mối băn khoăn lớn của Nguyễn Du cũng như của các nghệ sĩ ưu tú xưa nay. Không phải vận mệnh của con người nói chung mà của những người bị khinh khi, bị chà đạp. Ngay trong Văn chiêu hồn khi Nguyễn Du muốn học theo nhà Phật yêu thương tất cả mọi người thì phần thiết tha nhất trong tình ca cua Nguyễn Du vẫn hướng về những con người bị chà đạp. Đối với những kẻ đã chà đạp lên con người thì mặc dầu lúc đó Nguyễn Du không muốn oán trách ai, trong lòng Nguyễn Du tự nhiên cũng cứ bật lên những lời oán trách .
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ làm công một người
Trong Truyện Kiều, sự phân biệt lại càng rõ ràng, dứt khoát. Nguyễn Du xót thương cho Kiều bao nhiêu thì lại càng căm ghét cái bọn chúng nó làm khổ Kiều, Nguyễn Du ghét cay ghét đắng các thứ quan lớn quan nhỏ trong xã hội Truyện Kiều, ghét từ cái đám sai nha bắng nhắng, hách dịch, độc ác, dơ dáy chúng nó đã ập vào nhà họ Vương như một đám « ruồi xanh » đến cái ông “tổng đốc trọng thần” Hồ Tôn Hiến tuy nói là “kinh luân gồm tài” nhưng không thấy có cái tài nào khác ngoài cái tài phản trắc và dâm ô. Đối với hắn, Nguyễn Du nể nhiều bởi vì hắn quyền cao chức trọng, trong trí Nguyễn Du còn có chỗ phân vân. Nhưng trong lòng Nguyễn Du thì yêu ghét vẫn phân minh. Ngòi bút Nguyễn Du vẫn ấm ức, Nguyễn Du đã thuật lại cảnh Hồ Tôn Hiến nghe đàn :
Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Cái thứ “mặt sắt” mà “ngây vì tình” ấy quá không lấy gì làm đẹp !
Ông quan đã thế, lại còn bà quan nữa. Đại biểu cho bà quan ở đây là mụ mẹ Hoạn thư. Chưa nói đến cái tội của mụ đã cùng con bày mưu kế đốt nhà, cướp người, hành hạ người đến cùng cực, nội cái thói oai vệ của mụ cũng đủ dễ ghét:
Ban ngày sáp thắp hai bên
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà
Chắc không phải vô tình mà Nguyễn Du đã thu xếp cho mụ ta cái kiểu ngồi chễm chệ ấy.
Bên cạnh cái bọn có quyền thế này là cả một lũ lưu manh đủ kiểu từ bọn chuyên nghề buôn thịt bán người đến bọn Khuyển Ưng nhà họ Hoạn. Bọn này hay bọn kia đều chỉ biết có tiền. Quan lại vì tiền mà bất chấp công lý; sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông; Tú bà, Mã giám sinh, Bạc bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người; Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm ; Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác cả một xã hội chạy theo tiền:
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê
Tài tình, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ là một món hàng buôn qua bán lại. Cho nên Nguyễn Du căm ghét vô cùng cái sức nặng của đồng tiền nó đè lên những kiếp người tay không và lương thiện.
Một vấn đề lớn đối với mỗi chúng ta trong đạo làm người là vấn đề yêu và ghét, nói một cách khác là vấn đề phân biệt bạn thù. Lấy thù làm bạn, xem bạn là thù là một sai lầm nguy hiểm như thế nào, chúng ta đều biết. Có người không sai lầm đến thế, đối với thù cũng gọi là có ghét, đối với bạn cũng gọi là có yêu, nhưng yêu ghét hững hờ, nhạt nhẽo, phải nói là chưa thực sự biết ghét và biết yêu. Nguyễn Du rõ ràng không phải là người như thế.
Nguyễn Du đã yêu thương là yêu thương hết mức và căm giận nói chung cũng căm giận đến điều. Yêu thương những người dân lành bị chà đạp và căm giận tất cả những kẻ nào, tất cả những gì vô cớ chà đạp lên con người. Yêu thương và căm giận đến mức không thể nào không cho vung lên một cây gươm để quét đi bao nhiêu bạo tàn, bao nhiêu dơ dáy. Cây gươm của Từ Hải đã vung lên bất chấp mọi kỷ cương thời ấy ; sấm sét đã nổ vào đầu lũ bất nhân; cuộc đời Thúy Kiều bỗng rực sáng lên; câu thơ Nguyễn Du như muốn hát vang lên, hỉ hê, sung sướng. Và như thế là Nguyễn Du đã làm một việc rất táo bạo mà rất đúng, khác xa các thứ đạo lý tự cho là cao thượng giờ đây vẫn đang ra sức mê hoặc người ta: Nguyễn Du đòi cho người bị áp bức cái quyền được dùng bạo lực mà trả thù và trị tội. Kế đó Từ Hải bị giết, vì dại dột tin người mà bị giết. Trời đất lại tối sầm lại và ngòi bút Nguyễn Du căm giận, buồn tủi đến nghẹn ngào.
Thái độ ấy đối với Từ Hải, thái độ ngang nhiên ca ngợi và thương tiếc một người «làm giặc» ít nhất ra là không bình thường ở một nhà nho nhất là khi nhà nho đó lại là một ông quan. Nhưng chúng ta đều biết Nguyễn Du không thú vị gì với việc làm quan và vẫn khinh bỉ vô cùng những ai chỉ nuôi cái mộng làm quan. Trong thơ chữ Hán hai lần Nguyễn Du chỉ trích Tô Tần. Ông thuật lại chuyện Tô Tần khi thất chí trở về nhà bị khinh rẻ như thế nào, khi đắc chí trở về được trọng vọng như thế nào. Ông nhắc lại câu Tô Tần trách chị dâu: « Sao trước khinh mà nay trọng» và xem đó là một lời nói cực kỳ bỉ ổi…
Hợp tung bất tại khước cường Tần
Đãn hướng sở thân kiêu phú quí
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu
Ta hồ thử nhân tiểu tai khí
(Mưu hợp tung không nhằm đầy lùi nước Tần cường bạo
Mà chỉ cốt lấy phú qui vênh váo với người thân
Đâm dùi vào vế vốn là để mưu quyền lợi
Ôi khi cục con người ấy mới bé nhỏ làm sao)
Chắc chắn không phải vô cớ mà Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại chuyện Tô Tần. Khi Nguyễn Du viết những bài này, chế độ nhà Nguyễn đã đứng được trên mười năm, con cháu Tô Tần chắc đang trên đà sinh sôi nẩy nở.
Thái độ khinh bỉ và căm giết của Nguyễn Du đối với bọn quyền cao chức trọng ta càng thấy rõ hơn nữa trong những bài thơ về Khuất Nguyên, nhà chí sĩ và nhà thơ vĩ đại cua nhân dân Trung-quốc. Khuất Nguyên có lẽ là người Nguyễn Du tưởng nhớ nhiều nhất. Hiện ta còn giữ được đến năm bài thơ của Nguyễn Du về Khuất Nguyên mà bài nào lời thơ cũng thấm thía. Người đọc có cảm giác như Nguyễn Du đã tìm thấy ở Khuất Nguyên một con người đồng điệu. Tấm lòng thanh cao của Khuất Nguyên, tài trí tuyệt vời của Khuất Nguyên, cả cái tình cảnh éo le của Khuất Nguyên, Nguyễn Du đều thấy như có gì giống với minh. Thời thế lúc này, Nguyễn Du cũng thấy nó không hơn gì thời Khuất Nguyên còn sống. Trong bài Ngũ nguyệt quan canh độ, nhắc lại việc bao nhiêu đời người ta gọi hồn Khuất Nguyên mà hồn vẫn không về, Nguyễn Du viết:
Hồn nhược qui lai dã vô thác
Long xà quỉ quắc biến nhân gian
(Hồn mà trở về thì cũng không biết nương tựa vào đâu
Khắp trên cõi người đầy những loài rắn rồng, quỉ quắc)
Ý này, một lần khác, Nguyễn Du đã phát triển thành một bài thơ kiệt tác tức là bài Phản chiêu hồn. Trái với thói thường, Nguyễn Du gọi hồn Khuất Nguyên, và bảo với hồn đừng có trở về cõi đời này vì cõi đời này ghê tởm quá. Yên, Sính, những mảnh đất quen thuộc với Khuất Nguyên giờ đây như thế nào ?
Thành quách do thị nhân dân phi
Trần ai cổn cổn ô nhân y
Xuất giá khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì
Bất lộ trảo nha dữ giác độc
Giảo tước nhân nhục cam như đi
(Thành quách vẫn như cũ, nhân dân thì khác rồi.
Cát lầm bụi đọng nhơ nhớp cả quần áo người.
Họ ra ngoài ngựa ngựa xe xe, họ ngồi nhà vênh vênh váo váo.
Họ đứng ngồi bàn tán y như ông Cao, ông Quì,
Họ không để lộ vuốt nanh và nọc độc,
Nhưng họ nhai xẻ thịt người thì ngọt xớt như đường)
Chúng ta biết Nguyễn Du với tư cách là tôi cũ của nhà Lê trong khi ra làm quan với nhà Nguyễn đã bị bọn quan lại đương thời chèn ép, đến nỗi ngay đám nha lại dưới quyền ông có khi cũng lên mặt với ông. Giọng thư đầy oán giận này chắc có phần bắt nguồn từ cái thế bị chèn ép ấy. Nhưng Nguyễn Du oán giận không phải chỉ vì mình mà còn vì những cảnh đau xót trong Văn chiêu hồn, vì hình ảnh ông già mù đi hát rong, vì tất cả những cảnh cơ cực mà Nguyễn Du rất thông cảm vì chính Nguyễn Du cũng đã trải qua. Ngay trong bài Phản chiêu hồn, cái nhìn rất ghê tởm của Nguyễn Du đối với bọn ăn thịt người cũng gắn liền với một cái nhìn rất đau xót đối với quần chúng lao khổ :
Quân bất kiến Hồ-nam sở bách châu
Chỉ hữu sấu tích vô sung phì
(Kìa hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ-nam
Toàn xơ xác, gầy còm, không một người nào béo tốt)
Ở đây cũng như ở Truyện Kiều vẫn một cái nhìn rất bi đát và đầy phẫn uất đối với cuộc đời. Nhưng ở đây cũng như ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa nhìn được rõ nguồn gốc sâu xa của mọi điều ngang trái, Nguyễn Du hoàn toàn chưa nhìn thấy lối ra :
Ngư long bất thực sài hổ thực
Hồn hề, hồn hề, nại hồn hà
(Cá rồng không nuốt thì hùm sói nuốt
Hồn ơi, hồn hỡi, biết làm thế nào bây giờ?)
Đó là nhược điểm lớn của Nguyễn Du cũng như của nhiều nhà thơ nhà văn khác thời xưa. Cái nhìn bế tắc ấy gắn liền với những tư tưởng định mệnh, hư vô, với cái chất buồn chán có khi nó tràn vào thơ văn Nguyễn Du như một thứ âm khí nặng nề mà chỉ có ánh sang của thời đại chúng ta, sức chiến đấu và tinh thần lạc quan của chủ nghĩa Mác- Lê-nin, mới xua tan đi được. Cái nhìn bế tắc ấy cũng ảnh hưởng đến thái độ yêu ghét của Nguyễn Du. Chẳng những trong Văn chiêu hồn mà cả trong Truyện Kiều, Nguyễn Du từng có khi lúng túng. Nguyễn Du rất ghét Hồ Tôn Hiến nhưng khi Nguyễn Du giới thiệu hắn ta :
Có quan tổng đốc trọng thân
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
thì đó có phải là một lời nói nữa không? Chưa chắc. Nguyễn Du kể một câu chuyện đau đớn đến đứt ruột. Nhưng Nguyễn Du lại nói rõ câu chuyên ấy đã xả ra trong cái bối cảnh:
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
Vô tình hay cố ý? Trong khi bao nhiêu oan khuất cứ chồng chắt lên cuộc đời Kiều, bao nhiêu tiếng kêu trời cứ vọng lên không ngớt thì kẻ tự xưng là con trời, thay trời trị nước lại không hay biết gì hết. Nhưng rồi chính Kiều lại là người hết lời ca ngợi công đức nhà vua :
Rằng : ơn Thánh-đế dồi dào,
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu
Bình thành công đức bấy lâu
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao !
Những lới ấy trong miệng con người ấy thật cũng lạ. Nhất là liền sau câu nói ấy và chính do câu nói ấy mà Thúy Kiều sẽ mắc phải cái tai họa lớn nhất và bước vào bước đường cùng quẫn nhất của đời mình. Vô hình trung câu nói kia biến thành một lời nói mỉa mai chua chát. Nhưng khó mà tin rằng Nguyễn Du đã có dụng ý mỉa mai. Vấn đề Nguyễn Du đặt ra không phải là vấn đề thay đổi một ông vua hay một triều đại, trên thực chất chính là vấn đề chế độ. Nhưng Nguyễn Du lại không biết thế nào là một chế độ Nguyễn Du chỉ biết cuộc đời như Nguyễn Du trông thấy và cảm thấy là không thể chịu được nữa rồi. Nguyễn Du không thấy có cách, nào thay đổi nó đi, ông cũng không nghĩ đời là chuyện có thể thay đổi được. Do đó mà cả trong yêu ghét cũng có những khi Nguyễn Du lúng túng, phân vân.
Tuy vậy, nhìn chung lại, mặc dầu không thấy có đổi ra, Nguyễn Du vẫn không đến nỗi lạc đường trong tình cảm. Trước cuộc đấu tranh tàn khốc giữa một bên là những thế lực gian ác nó ngự trị trên cuộc đời cũ, một bên là hàng vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn Du thường vẫn rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc.
Nói đến Nguyễn Du trước hết là nói đến một trái tim lớn tưởng chừng như giờ đây vẫn còn bồi hồi, thồn thức vì những nỗi khổ đau từ nghìn xưa của nhân loại. Nói đến Nguyễn Du cũng là nói đến một nghệ sĩ lớn. Cũng nên nói thêm : không có một trái tim lớn không thể thành nghệ sĩ lớn. Văn chiên hồn là một hình ảnh xót xa về cuộc sống trên đất nước chúng ta ngày trước. Mấy trăm bài thơ chữ Hán là những lời tâm sự của một người nhiều băn khoăn, day dứt. Cố nhiên không phải bài nào cũng hay. Nhưng cũng có đến mấy chục bài hay, có thể nói là rất hay. Tuy vậy nói đến thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du thì trước hết vẫn là nói đến Truyện Kiều.
Về nghệ thuật Truyện Kiều, người ta đã nói nhiều và về nhiều mặt. Nhưng, cái gì là chính trong giá trị nghệ thuật của Truyền Kiều ? Cái chính, theo chúng tôi nghĩ, là ở chỗ Nguyễn Du đã tái tạo lại cuộc sống đương thời và sáng tạo ra một thế giời có thật.
Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật. Cũng bởi vì rất sống, rất thật nên không ai giống ai và lấy riêng từng người thì cũng có khi thế này khi thế khác. Người ta thường đế ý mấy lần Kiều nhớ nhà, mấy lần Kiều đánh đàn đều mỗi lần một khác. Bao nhiêu lần chia ly cũng mỗi lần một khác. Thậm chí cũng nà chuyện giã nhà ra đi với Mã giám sinh thế mà khi mới ra đi một tâm trạng:
Đoạn trường thay, lúc phân kỳ!
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
sau bữa tiệc ở trường đình lại một tâm trạng khác :
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Nhưng muốn hiểu con người Thúy Kiều chân thực và sinh động như thế nào trong tâm trí Nguyễn Du, không gì bằng nghe lại một ít lời nàng nói. Chúng ta nhớ cái hôm lần đầu tiên những lới nói yêu đương của Kim Trọng cứ thấm dần, thấm dần vào người nàng :
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
khiến nàng bâng khuâng ngây ngất bỗng thốt ra những lời tựa hồ vô lý :
Rằng: Trong buổi mới lạ lùng
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang .
Nhưng lại rất phù hợp với cái lý của tình yêu. Rồi những lời vẫn rất dễ yêu mà đoạn chính khi nàng ngăn đón chàng Kim :
Thưa rằng: Đừng lấy làm chơi
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao !
Những lời bình tĩnh, dịu dàng khi nàng khuyên can người cha đau khổ :
Lượng trên dù chẳng dứt tình
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây
Phận sao đành vậy cũng vầy
Cầm như chẳng dậu những ngày còn xanh
Cũng đừng tính quẩn lo quanh
Tan nhà là một thiệt mình là hai
Nàng Kiều của Thanh Tâm tài nhân cũng khuyên cha nhưng không khuyên như thế. Ở đây cũng như trong toàn bộ Truyện Kiều, rõ ràng Nguyễn Du đã mượn một câu chuyện của Trung-quốc nhưng chính là để nói tâm tình Việt-nam. Ta nghe giọng nói của nàng Kiều Nguyễn Du đúng là giọng nói một người con gái Việt-nam. Con người dịu hiền là thế nhưng rồi «đến phong trần cũng phong trần như ai ». Rơi vào nơi nước sôi lửa bỏng, nàng cũng buộc phải có những lối nói năng khác để đối phó với bọn mặt người dạ thú. Khi Sở Khanh dẫn xác đến định chối biến đi và vu vạ, nàng cũng biết nói những lời mát mẻ :
Nàng rằng : Thôi thế thì thôi !
Rằng không thì cũng vâng lời rằng không
Đến khi Sở Khanh định hành hung thì nàng chỉ tay chửi thẳng :
Nàng rằng : Trời nhẽ có hay !
Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai ?
Đem người đẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay !
Còn tiên tích việt ở tay
Rõ ràng mặt ấy mặt này chớ ai.
Từ đó về sau ta còn được nhiều lần nghe Kiều nói, lần nào cũng đúng là giọng nói của người con gái ấy nhưng lại không có lần nào giống lần nào. ít có người trong truyện- cảnh ngộ éo le và tầm tư phong phú như Thúy Kiều. Cũng ít có người viết truyện gắn bó với nhân vật của mình sấu sắc như Nguyễn Du. Kiều rạo rực yêu đương mà băn khoăn vì số phận, liều lĩnh đi tìm hạnh phúc mà e thẹn, ngập ngừng, rồi những phút đau đớn phẫn uất, buồn tủi, chán chường, nhớ nhung, sợ hãi, những phút cuộc sống bỗng trở nên tưng bừng và rộng bao la, những phút liền sau đó cùng đường tuyệt vọng và cả cái cảnh đoàn tụ về sau vui dở buồn dở:
Những từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm mới bây giờ là đây
Tình duyên ấy hợp tan này
Tất cả những diễn biến muôn hình nghìn vẻ ấy trong cảnh ngộ, trong tâm tư của Kiều, Nguyễn Du đều thấu suốt, đều cảm thông, có lần Kiều bị đánh, Nguyễn Du đang kể chuyện bỗng kêu lên một tiếng:
Hóa nhi thật có nỡ lòng
Làm chi giày tía vò hồng lắm nao !
Tưởng chừng như những làn roi quất vào người Kiều đã khiến Nguyễn Du thấy đau đến trong da thịt.
Gô-rơ-ki nói: “Khi đọc Tôn-xtôi ta có cảm giác là các nhân vật có thật, có xương, có thịt… ta tưởng như nhìn thấy họ trước mắt ta, ta lấy tay sờ họ được”. Chúng ta đọc Truyện Kiều đều cùng chung một cảm giác ấy. Một bà cụ nông dân một hôm nói với tôi: “Nước Nam mình đẹp nhất có con Kiều. Mà khổ nhất cũng con Kiều. Thương nó quá”. Những nhà nho hoặc khinh ghét Kiều như Nguyễn Công Trứ, Huỳnh Thúc Kháng hoặc yêu mến Kiều như Mộng liên đường, Chu Mạnh Trinh cũng đều xem Kiều là người có thật. Mộng liên đường viết: “Dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn, như đứt ruột”. Còn Chu Mạnh Trinh thì có thể nói là không những say Truyện Kiều, say văn chương Truyện Kiều mà chính là say nàng Kiều y như say một giai nhân có thật. Con người ấy từ lâu đã sống trong lòng hàng triệu người và được quí trọng, được âu yếm, được yêu mến đến say mê. Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc đời và nhiều khi người ta đã quên không còn nhớ Kiều là ngươi trong tiểu thuyết.
Nội chừng ấy cũng đã nói lên thành công lớn của Truyện Kiều về nghệ thuật. Nhưng trong Truyện Kiều còn có bao nhiêu người khác, có chàng Kim, con người rất mực chung tình, có Thúy Vân, cô em gái ngoan, có Hoạn thư, người đàn bà bản lãnh khác thường, biết điều mà cay nghiệt, có Thúc sinh, anh chàng sợ vợ, có Từ Hải chợt hiện ra chợt biến đi như mộ vì sao lạ, mỗi người một cá tính khó quên. Đối với bọn nhà chứa, ngòi bút Nguyễn Du không tò mò, Nguyễn Du ngại bới ra những gì quá dơ dáy, Nguyễn Du chỉ ghi vội vài nét. Nhưng chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhô nhục dưới ngòi bút Nguyễn Du với cái màu da “nhờn nhợt” của Tú bà, cái bộ mặt “mày râu nhẵn nhụi” của Mã giám sinh, cái vẻ “chải chuốt dịu dàng” của Sở Khanh, cái miệng thề xoen xoét của Bạc bà, Bạc Hạnh. Nguyễn Du đã nhìn rất rõ mặt mũi của bọn này. Hơn nữa Nguyễn Du đã nhìn thấu tận trong ruột, đã “đi guốc trong ruột” chúng nó, như người ta thường nói. Nếu không, không thể nào tóm đúng được thần thái gian tà của chúng như vậy. Sở Khanh có vẻ một nhà nho. Nhưng ngay trong hình dáng “chải chuốt dịu dàng» đã có một cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là nhà nho chân chính. Kế đó Sở Khanh nói với Kiều những lời lụa là, ngọt ngào nhưng cũng khó mà tin có một chút tình nghĩa nào trong đó :
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa ?
Nghe như một giọng hát rất điêu luyện mà rỗng không. Đến khi Sở Khanh nói những lời khảng khái, lời nói của Sở Khanh rất giống lời một hiệp khách nhưng vẫn không phải là lời hiệp khách :
Tức gan riêng giận trời già
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng ?
Sau khi nghe Kiều kể nông nỗi đầu đuôi thì Sở Khanh:
Lặng nghe lẩm nhẩm gật đầu
Ta đây nào phải ai đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi.
Chưa nói đến cái dáng ngồi “lẩm nhẩm gật đầu” rất đáng nghi, ngay lời nói cũng có vẻ khoác lác, trống rỗng khác xa những lời nói thực sự ngang tàng của Từ Hải.
Trong văn chương, nói trắng cho ra trắng, đen cho ra đen đã là khó. Ở đây lại phải nói trắng mà trên thực chất lại là đen; không được để trắng đen lẫn lộn mà vẫn phải có khả năng lẫn lộn. Nguyễn Du đã vượt được cái khó khăn ấy. Sở Khanh chỉ đi thoáng qua trong truyện mà người đời sẽ mãi mãi không quên ! Xét về mức độ bỉ ổi và trâng tráo thì nó vượt xa tất cả những Sở Khanh có thật ngày trước và ngày nay. Người xưa có kẻ khen một bức tranh vẽ ngựa nói: từ khi có bức tranh ấy thì trong thiên hạ không còn có gì đáng gọi là ngựa. Ta cũng có thể nói như vậy về nhân vật Sở Khanh.
Nói chung nhân vật của Nguyễn Du, chính diện hay phản diện, đều là “những con người rất sống. Những con người ấy đi lại trong những cảnh cũng rất sống, rất gắn bó với người. Cùng một cảnh nơi mộ Đạm Tiên mà trong buổi chơi xuân thì thanh thanh, lặng lặng:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sau khi Kim Kiều gặp nhau, yêu nhau, chưa nói được với nhau một lời đã mỗi người một ngả thì phong cảnh như bâng khuâng một mối tình khó tả:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Đến khi Kim Trọng nhờ người trở lại tìm cảnh thì cảnh lại ra chiều dửng dưng, tinh nghịch :
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Kiều không biết mấy lần nhìn trăng nhưng cảnh trăng cũng mỗi lần một khác : khi rạo rực yêu đương, khi gần gụi âu yếm, khi bát ngát bao la, khi ám ảnh như một lời trách móc, khi cô đơn, khi tàn tạ, khi mong manh. Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường vẫn kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người.
Vẽ cảnh cũng như vẽ người, ngòi bút Nguyễn Du không làm theo lối dựa vào cảnh mẫu, người mẫu để ghi chép. Ta có thể hình dung Nguyễn Du như một con người lẳng lặng, ít cười it nói, ít cởi mở với đời, nhưng, tâm hồn thì lại lộng gió mười phương, không một chuyển động nào ở bên ngoài không vang dội sâu trong đó. Cả cuộc đời Nguyễn Du trải qua đã tràn vào trong tâm hồn kỳ diệu ấy, đã gợi lên những rung cảm mãnh liệt, tinh vi, đã đúc lại thành hình tượng. Đến khi Nguyễn Du cầm bút dựng nó lên thì những hình tượng ấy đều chan chứa một sức sống có sẵn từ bên trong.
Cũng vì vậy nên nét bút Nguyễn Du là những nét bút có thần và bước vào thế giới Nguyễn Du là bước vào một thế giới sinh động và vô cùng, phong phú. Ở đây, có đủ buồn chán, giận hờn, đau đớn, chờ mong, thương, nhớ, phấn khởi, hả hê, có cái khoan khoái trong một cảnh chơi xuân, cái ghê rợn một đêm khuya vượt tường đi trốn, cái e lệ của tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ, cái trắng trợn của một con trùm đĩ, cái tàn bạo của quan lại, cái thô bỉ của sai nha, cái khí thế ngang tàng của một tay anh hùng hảo hán.
Nhưng ta kể làm sao cho hết được; vì ở đây, trong thế giới Truyện Kiều cũng như trong thế giới thật của chúng ta, cuộc đời diễn ra muôn màu muôn vẻ, có những điều nhìn rõ, cũng có những điều chỉ cần thấy mơ màng, nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Du thì đều dựng lên như thật, khiến bao nhiêu người xưa nay đọc Truyện Kiều, nghe Truyện Kiều nỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau mà không mấy khi không tìm được một ít câu nói đúng những điều mình muốn nói. Không trải qua một cuộc đời nhiều chìm nổi trong một thời đại nhiều biến thiên, không có một tấm lòng thiết tha lớn với vận mệnh, con người, không biết đứng về phía quần chúng mà nhìn mọi nỗi bất công, mọi điều oan khuất, không biết cùng với quần chúng băn khoăn, phẫn nộ, ước mơ, không thể sáng tạo ra một thế giới như vậy. Cũng cần nói thêm : không có một cái vốn học sâu rộng, vừa học trong sách vở, vừa học trong cuộc đời, không có sẵn một sức tưởng tượng phi thường, một thứ năng khiếu đặc biệt về ngữ ngôn, về vần điệu cũng không thể dựng lên một thế giới như vậy.
Chúng ta có thể nói rất nhiều về cách dùng chữ, đặt câu, cách sáng tạo lại một hình ảnh, cách vận dụng nhịp điệu, âm thanh, về những sự biến hóa trong cách hành văn, về các loại văn trong Truyện Kiều, văn kể chuyện, văn gợi cảnh, dựng người văn tự tình và cả văn kịch, văn đối thoại. Cũng có thể nói đến cách phối hợp bút pháp của văn hào, thi hào Trung quốc, những truyền thống của văn học cổ điển Việt-nam với cái khiếu văn chương hồn nhiên của quần chúng, cái phong phú, cái kiều diễm của ca dao và nhiều nữa. Nhưng chỉ xin nói vắn tắt một điều là về lời, về chữ thì chưa có một nhà văn nhà thơ nào khác sánh kịp Nguyễn Du trong lịch sử văn học Việt Nam. Không ở đâu, tiếng nói của dân tộc lại dồi dào mà chính xác, tinh vi, trong trẻo, truyền đúng cái thần của sự vật và sự việc như ở đây. Đây đó trong lời thơ cũng có những chỗ công thức. Nhưng ở Nguyễn Du, đằng sau những lời có vẻ công thức, không mấy khi ta không thấy hồi hộp một tấm lòng. Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung. Tiếng đàn ấy, hòn ngọc ấy mang cốt cách riêng của Nguyễn Du, của thời đại Nguyễn Du, ta không thể nào nghe lại, thấy lại một lần thứ hai nên lại càng quý. Ngày nay có ai rơi vào cảnh khổ nhục của Thúy Kiều chắc cũng không nói năng văn vẻ như Thúy Kiều :
Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay
Các thứ gấm vóc lụa là ấy trong văn chương không còn hợp thời nữa. Nhưng Thúy Kiều thì phải nói như thế và gấm vóc lụa là trong câu nói của Thúy Kiều không có hại gì cho tình cảm. Chẳng những thế, nỗi đau xót ở đây càng gói kín lại càng đau. Đúng như đồng bào Thái từng nói cũng về chuyện tình yêu :
Như xôi bỏng bọc lá tươi
Lá tươi bọc lá tươi càng nóng
Bàn về thân thế Thúy Kiều, sư Tam Hợp có câu:
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng
Đứng về một phía nào đó mà nhìn, có thể nói lịch sử thơ văn Nguyễn Du đặc biệt là lịch sử Truyện Kiều cũng long đong như vậy. Từ khi ra đời cho đến gần đây, trong một thời gian rất lâu, Truyện Kiều không hề có một chỗ ngồi cho yên ổn. Người khen khen rất mực, người chê chê cũng hết lời, cứ đặt vấn đề ra là y như rằng có tranh luận và tranh luận hết sức sôi nỗi, say sưa. Rõ ràng đây là một nơi va chạm kịch liệt của nhiều loại quan điểm khác nhau về thế giới, về nhân sinh, về đạo đức, về nghệ thuật, về chính trị.
Chỉ từ Cách mạng tháng Tám về sau, thân thế của Truyện Kiều trong xã hội Việt-nam mới đỡ phần ba chìm bảy nổi. Tuy có nhiều vấn đề còn phải thảo luận và chưa phải đã có thể kết luận được ngay nhưng dần dần chúng ta đã xác định được vị trí của Truyện Kiều và của Nguyễn Du trong nước Việt-nam dân chủ cộng hòa nó là vị trí của nhà thơ lớn nhất, của tác phẩm lớn nhất trong văn học cổ điển Việt Nam.
1. Mở bài: Giới thiệu dẫn dắt nhận định và trích đoạn.
2. Thân bài:
a. Giải thích:
- "Lời văn tả ra như máu chảy ở đầu ngòi bút, nước mắt thấm trên tờ giấy" chính là cách nói nhân hóa, so sánh để nói về tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều bằng cả cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ.
- "Khiến ai đọc cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột" ý nói sức lay động và tác động lớn của Nguyễn Du tới bao thế hệ độc giả.
- Cả câu: Khẳng định cái tài cái tâm của Nguyễn Du đã khiến mọi thế hệ độc giả đều bị lay động.
b. Chứng minh qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Phân tích 6 câu đầu: Nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Thúy kiều trước lầu Ngưng Bích
- Phân tích 8 câu tiếp: Nỗi nhớ người yêu và mẹ cha của Thúy Kiều
- Phân tích 8 câu cuối: Nỗi buồn đau, lo lắng của Kiều cho cuộc đời của chính mình
=> Qua đoạn trích ta thấy được cái tâm của Nguyễn Du: ông đã hóa thân và am hiểu diễn biến tâm lí của nhân vật. Vì thế mà Nguyễn Du đã để Thúy Kiểu nhớ về người yêu trước rồi mới nhớ về mẹ cha. Sau đó, bức tranh tứ bình tả cảnh ngụ tình lại góp phần thể hiện được nội tâm sâu sắc nhất của nàng Kiều.
c. Đánh giá
- Nhận định trên là hoàn toàn đúng.
- Nhận định trên phần nào được làm sáng tỏ qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Mở rộng: Ngoài ra nhận định còn được thể hiện qua nhiều đoạn trích khác của Truyện Kiều như Nỗi thương mình, Trao duyên,...
1. Lập dàn ý
a.Mở bài
– Đề tài phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói riêng.
– Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ cũ.
b. Thân bài
* Vũ Nương – người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận đau khổ :
– Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.
+ Tư dung tốt đẹp – người con gái bình dân.
+ Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ.
+ Là người cố lòng tự trọng.
– Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau :
+ Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn cất mẹ chồng.
+ Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng : nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên do, mắng nhiếc thậm tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết.
+ Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được.
* Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến :
– Con người không làm chủ được vận mệnh của mình.
– Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất công cho người phụ nữ ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng.
– Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển.
– Cảm thông và hiểu rõ đĩều tốt đẹp trong phẩm chất của họ.
(lấy ví dụ qua ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều,…)
c. Kết bài : Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại.
2. Bài làm minh họa
Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ.
Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung : “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an : chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :
Đau đớn thay phậh đàn bà,
Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung.
Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự :
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu : một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết :
Thân em ưừa trắng lại ưừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển.
Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.
Ảnh hưởng của văn học dân gian với văn học viết
- Tác giả sử dụng thành ngữ, tục ngữ của văn học dân gian trong lời văn, lời thơ: Bảy nổi ba chìm (Hồ Xuân Hương), bướm lả ong lơi (Truyện Kiều- Nguyễn Du)…
- Sử dụng thể thơ Lục bát của dân tộc
- Sử dụng, mượn cốt truyện dân gian. Ví dụ: Chuyện người con gái Nam Xương…
- Tác giả viết dưới sự gợi cảm hứng của văn học dân gian. Ví dụ: Con cò- Chế Lan Viên
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết văn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim; đề tài chính; cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ. Chiếc lược ngà viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cha con và nỗi đau chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mỹ thông qua nhân vật ông Sáu và bé Thu.
Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống. Tình huống thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình cảm của bé Thu dành cho người cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này bộc lộ sâu sắc tình cảm của người cha đối với con.
Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Khi mới gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi cha, nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi. Bữa cơm, Thu liền hất cái trứng cá mà cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua cái dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to.
Sự ương ngạnh ấy của cô bé hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó được biết. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của em có chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác – người trong tấm hình chụp với má em.
Nhưng trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba mà tiếng kêu như tiếng xé, rồi nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhan như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Sở dĩ có sự biến đổi đột ngột như vậy trong thái độ và hành động của bé Thu là vì trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở cô bé nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: Khi nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.
Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu. Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào ở tình huống thứ nhất, trong chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kỹ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng người cha nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choán hết tâm trí ông. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy ông Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của ông cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, ông dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng ông nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má...má” và bỏ chạy. Hành động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà ông dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày vò ông trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xóa tan những lạnh lùng của con bé đối với ông. Người cha muốn ôm con và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng. Thế nhưng không... những gì ông từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ông, nhưng ông vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này ông chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.”
Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.
Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân ông ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại quẫy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao yêu thương mà ông muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Cũng chính giây phút ấy, ông nghe thấy từ con tiếng gọi “Ba... a.... a... ba”. Tiếng gọi bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Hạnh phúc đến với ông quá đột ngột khiến cổ ông nghẹn lại. Không kìm được xúc động, ông Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con... Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi, từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu chuyện, lúc ông Sáu ở rừng. Ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình cha con của mình.
Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đó vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Ông không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đó hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đó biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng, mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
Truyện Chiếc lược ngà diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Truyện thành công nổi bật ở nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, ở ngòi bút miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em.
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU
Từ một tiểu thuyết chương hồi ít tiếng tăm, Nguyễ Du đã sang tạo lại bằng thể truyện thơ chữ nôm với thể thơ lục bát dân tộc kêt hợ hài hoà giữa yếu tố tự sự với trữ tình từ đó tạo ra một kiệt tác thi ca nổi tiếng giàu tính nghệ thuật
– Cái nhìn của Nguyễn Du với tác phẩm có sự sang tạo lớn. Tất cả các nhân vật được bao bọc bởi cái nhìn nhân đạo của ông nên có sự thay đổi về tính cách, số phận, cách đánh giá các giá trị của nguời đời đối với nhân vật
– Từ một câu chuyện “tình cổ” xoay quanh ba nhân vật Kim- Vân- Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo thành một khúc cađau lòng thương người bạc mệnh với nhân vật trung tâm lý tưởng là nàng Kiều. Đồng thời Tố Như thể hiện quan niệm nhân sinh đối với những điều trông thấy: “Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long”.
– Tác giả đã lược bỏ nhiều chi tiết, sự việc rắc rối, dung tục , thay đổi trật tự kể và them vào những chi tiết mới để tô đậm câu truyện về tình người. Ông biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng bộc lộ cảm xúc, tính cách nhân vật, chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện đến nội tâm của nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả người, tả tình rất điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn
– Ngôn ngữ của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là ngôn ngữ dự báo về tính cách, số phận nhân vật.
– Bút pháp cá thể hóa nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân không rõ nét bằng Nguyễn Du.
Từ một tiểu thuyết chương hồi ít tiếng tăm, Nguyễ Du đã sang tạo lại bằng thể truyện thơ chữ nôm với thể thơ lục bát dân tộc kêt hợ hài hoà giữa yếu tố tự sự với trữ tình từ đó tạo ra một kiệt tác thi ca nổi tiếng giàu tính nghệ thuật
– Cái nhìn của Nguyễn Du với tác phẩm có sự sang tạo lớn. Tất cả các nhân vật được bao bọc bởi cái nhìn nhân đạo của ông nên có sự thay đổi về tính cách, số phận, cách đánh giá các giá trị của nguời đời đối với nhân vật
– Từ một câu chuyện “tình cổ” xoay quanh ba nhân vật Kim- Vân- Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo thành một khúc cađau lòng thương người bạc mệnh với nhân vật trung tâm lý tưởng là nàng Kiều. Đồng thời Tố Như thể hiện quan niệm nhân sinh đối với những điều trông thấy: “Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long”.
– Tác giả đã lược bỏ nhiều chi tiết, sự việc rắc rối, dung tục , thay đổi trật tự kể và them vào những chi tiết mới để tô đậm câu truyện về tình người. Ông biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng bộc lộ cảm xúc, tính cách nhân vật, chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện đến nội tâm của nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả người, tả tình rất điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn
– Ngôn ngữ của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là ngôn ngữ dự báo về tính cách, số phận nhân vật.
– Bút pháp cá thể hóa nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân không rõ nét bằng Nguyễn Du.