Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé:
Hình ảnh “lá vàng” gợi đến sự tàn phai, rơi rụng. Nhưng đầu xuân sao lại có “lá vàng”? "Lá vàng rơi trên giấy”, giấy ấy chính là “Giấy đỏ buồn không thắm”. Hình ảnh “lá vàng” gợi đến thân phận ông đồ trong bài thơ. Ông đã bị xã hội bỏ rơi, ông đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng bẽ bàng ngồi bên lề phố “đông người qua” nhưng so với thời đại mới đang sục sôi, bon chen thì ông chỉ là chiếc lá úa tàn đang rụng rơi cay đắng. Nỗi buồn ấy âm thầm và tê tái, nó khiến cơn mưa xuân vốn chứa đựng sức sống bền bỉ, dai dẳng cũng trở thành đìu hiu, xót xa: “Ngoài giời mưa bụi bay”. “Giời” chứ không phải là “trời”. Đó là cách gọi của dân gian, của những “người muôn năm cũ", trong đó có ông đồ. Câu thơ gợi cái ngước nhìn buồn thẳm của ông trước làn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bụi, mưa bay nhưng nó cũng đủ sức xóa mờ đi dấu vết của cả một lớp người. Âu cũng bởi lớp người ấy quá mong manh, bé nhỏ!
Refer:
Hai câu thơ cuối của khổ thơ trên là hai trong số những câu thơ hay nhất của bài thơ. Cái khung cảnh "lá vàng rơi " nói lên một bầu không khí u buồn ảm đạm hiu quạnh, sự tàn phai rơi rụng. Không những thế, lá vàng lại còn rơi trên giấy, ông đồ không buồn nhặt mà cứ để nó rơi hoài, rơi hoài. Dường như phủ đi cả giấy lẫn hình ảnh ông đồ vào quên lãng. Đọc đến đây thôi ta cũng cảm thấy tâm trang buồn tan nát của ông đồ. Một thời huy hoàng nay còn đâu! Ta để ý rằng, ở đây đang mùa xuân. Vậy mà tại sao? Tại sao vẫn có những chiếc lá vàng rơi lả tả trên trang giấy? Tại sao có hình ảnh lá vàng rơi trong mùa xuân đang tràn ngập ấm áp? Phải chằng hình ảnh ông đồ chính là chiếc lá vàng, chiếc lá sót lại vẫn đang cố gắng níu giữ thời gian đã qua? Nhưng rồi, chuyện tới thì cũng phải tới. Lá cũng rơi và ông đồ thì không ai hay. Ở đây là mùa xuân vậy mà mưa không phơi phới bay. Ông đồ với dáng người gầy gò, ốm yếu dường như cũng bị vùi lấp nhạt nhòa dần trong làn mưa bụi. Mưa dường như cũng khóc thương cho tình cảnh éo le tội nghiệp của ông đồ. Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc đã diễn tả vô cùng hoàn mĩ hình ảnh éo le xuất hiên mỗi lúc một mờ dần và đến khổ thơ cuối cùng thì không còn nữa. Với thể thơ ngũ ngôn và từ ngữ gợi cảm giàu sức tạo hình có nghệ thuật cao phù hợp phù hợp diễn tả tâm tình sâu sắc của nhà thơ. Qua đó, tác giả bày tỏ sự luyến tiếc cho một nét đẹp đã bị phai tàn và nhắn nhủ tới người đọc hãy biết trân trong những phong tục tốt đẹp đang còn tồn tại vì nó thể hiện một cốt cách con người Việt Nam.
tham khảo
Biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ trên là sử dụng hình ảnh tượng trưng và cảm giác đối lập để tạo ra hiệu ứng tương phản.
Hình ảnh "Ông đồ vẫn ngồi đấy" và "Qua đường không ai hay" tượng trưng cho sự cô đơn và bất lực của con người trong cuộc sống hiện đại, khi mọi người đều bận rộn và không quan tâm đến nhau.
Hình ảnh "Lá vàng rơi trên giấy" tượng trưng cho sự tĩnh lặng và sự thoáng qua của thời gian.
Còn hình ảnh "Ngoài giời mưa bụi bay" tạo ra cảm giác bất an và không chắc chắn, tạo nên sự đối lập với hình ảnh trước đó.
Tác dụng của biện pháp này là tạo ra một không gian tưởng tượng sâu sắc, gợi lên những cảm xúc và suy nghĩ về sự cô đơn, thời gian trôi qua và sự không chắc chắn trong cuộc sống.
Câu 1
- Thể thơ: năm chữ
- Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.
Câu 2
Bài thơ viết theo thể năm chữ đã học: “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh)/ “Đêm nay Bác không ngủ” (Minh Huệ).
Câu 3
- Phép tu từ nhân hóa: “giấy đỏ buồn”, “mực…sầu”.
- Tác dụng: Khiến những vật vố tri như “giấy”, “mực” trở nên giống như con người, cũng cảm nhận được nỗi buồn tủi của chủ nhân. Qua đó thể hiện tình cảnh buồn khổ, thảm thương của ông Đồ thời tàn và niềm cảm thông, sự xót xa của tác giả trước tình cảnh đó của tác giả.
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Đọc đến đây ta cảm thấy tình cảnh đáng thương của ông đồ. Theo tín hiệu của hao đào nở ông đồ vẫn ngồi đấy bày mực tàu giấy đỏ trên những con phố đông đúc người qua lại sắm tết. Nhưng trái lại là cảnh người thờ ơ hờ hững đi qua không ai hay ông đồ vẫn ngồi đó ,mọi thứ vẫn như xưa nhưng dương như một phong tục tốt đẹp của người dân Việt Nam đã bị lãng quên ngay trên đường phố mà không ai hay biết. Thảm cảnh thê lương ngồi hóa đá của ông đồ khiến chúng ta thấy nhói lòng. Chẳng còn nữa cảnh mọi người nô nức đi xin chữ ,háo hức chờ đợi đến lượt mình mà hiện tại phũ phàng khiến cả tác giả và chúng ta đứng lặng người trước khung cảnh chẳng như xưa. Hai câu thơ:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụị bay”
“lá vàng rơi”gợi không khí u buồn ảm đạm hiu quạnh ,sự tàn phai rơi rụng. Không những thế lá vàng lại còn rơi trên giấy ,ông đồ không buồn nhặt mà cứ để nó rơi hoài dường như phủ đi cả giấy lẫn hình ảnh ông đồ vào quên lãng. Đọc đến đây thôi ta cũng cảm thấy tâm trang buồn tan nát của ông đồ ,một thời huy hoàng nay còn đâu. Ta để ý rằng ở đây mùa xuân nhưng vẫn có những chiếc lá vàng rơi lả tả trên trang giấy. Lá vàng gợi ta liên tưởng tới mùa đông ,tại sao có hình ảnh lá vàng rơi trong mùa xuân đang tràn ngập ấm ám. Phải chằng hình ảnh ông đồ chính là chiếc lá vàng kia vẫn đang cố níu giữ thời gian đã qua?Nhưng rồi lá cũng rơi và ông đồ thì không ai hay. Ở đây là mùa xuân vậy mà mưa không”phơi phới bay” ,ông đồ gầy gò ốm yếu dường như cũng bị vùi lấp nhạt nhòa dần trong làn mưa. Mưa dường như cũng khóc thương cho tình cảnh éo le tội nghiệp của ông đồ. Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc đã diễn tả hình ảnh éo le xuất hiên mỗi lúc một mờ dần và đến khổ thơ cuối cùng thì không còn nữa
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo,ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng: “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn. “lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc
- Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên miêu tả tâm trạng ông đồ thời suy tàn.
- Bằng các biện pháp nghệ thuật đối lập, tả cảnh ngụ tình để thể hiện niềm cảm thương trước hình ảnh ông đồ lạc lõng, trơ trọi “vẫn ngồi đấy” như bất động, lẻ loi và cô đơn khi người qua đường thờ ơ vô tình không ai nhận thấy hoặc đoái hoài tới sự tồn tại của ông.
- Qua hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, hiểu được nỗi buồn của con người thấm sâu vào cảnh vật. Hình ảnh “lá vàng, mưa bụi” giàu giá trị tạo hình vẽ nên một bức tranh xuân lặng lẽ, âm thầm, tàn tạ với gam màu nhạt nhòa, xám xịt.
- Khổ thơ cực tả cái cảnh thê lương của nghề viết và sự ám ảnh ngày tàn của nền nho học đồng thời thể hiện sự đồng cảm xót thương của nhà thơ trước số phận những nhà nho và một nền văn hóa bị lãng quên.
tham khảo
Những mùa hoa đào nối tiếp đi qua… Giữa một không gian rét mướt, chỉ còn thấy hình bóng một ông đồ già trơ trọi đáng thương:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay”
Ba chữ “vẫn ngồi đấy” gợi tả một hình nhân bất động, vô cảm và vô hồn. Bị lãng quên trong lòng người và trong dòng đời, còn ai đoái hoài ông đồ nữa: “Qua đường không ai hay”? Dư vị của vần thơ là cả một nỗi buồn cay đắng, chua xót!
Bài thơ “Chợ Đồng” của Tam nguyên Yên Đổ đã ghi lại bao cảnh buồn thê lương của phiên chợ Tết nơi làng quê trong những năm đầu của thế kỉ trước. Người đi chợ về lầm lũi, tầm tã trong một không gian “Dở trời mưa bụi còn hơi rét”, chỉ nghe một nỗi buồn cơ cực “xáo xác” mà thôi:
“Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Ta lại bắt gặp làn mưa bụi trong bài thơ “Ông độ”. Một thân phận hiện hữu đáng buồn và đáng thương, xót xa và sầu tải:
“Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay”…
Giấy đỏ bị phủ đầy lá vàng sao mà chẳng “buồn không thắm”? Màu vàng tàn tạ của lá rụng, làn mưa bụi tiết đại hàn cuối đông, như phủ mờ đất trời, làm xót xa, tê tái lòng người. “Lá làng”, “mưa bụi bay” là hai hình ảnh tượng trưng cho một sự lụi tàn để lại nhiều thương cảm. Hình bóng ông đồ già bất động như một pho tượng cổ cứ mờ dần, nhạt nhòa dân trên nền “vàng” của lá rụng, trong màu trắng đục, trắng mờ của làn “mưa bụi bay” buổi đông tàn.
Ông đồ giờ “vẫn ngồi đây”, nhưng “qua đường không ai hay”. Ông ngồi đây để chờ những hi vọng cuối cùng nhưng không ai còn để ý tới ông nữa. Khác với một thời vàng son được trổ tài múa bút, được bao nhiêu người thuê viết, nay cảnh vật thật quá hiu quạnh. Chiếc lá vàng rơi chấm dứt sự sinh sôi của nó cũng như chính ông đồ bây giờ. Lá vàng rơi nhưng người nghệ sĩ chẳng buồn nhặt vì có khách đâu mà dùng tới giấy, tới nghiên mực. Cộng hưởng với nỗi buồn của ông còn có cơn “mưa bụi" của đất trời. Một hình ảnh tượng trưng chất chứa nhiều tâm trạng. Cơn mưa bay này vừa là hiện thực, là nét đặc trưng của mà xuân đất Bắc nhưng đồng thời cũng là mưa trong lòng người. Câu thơ tả cảnh mà ngụ tình gợi trong lòng người đọc một nỗi buồn mang mác khó tả.