Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
-Vì nhận thấy chưa đủ sức tấn công Liên Xô, Hít-Le quyết định tấn công các nước Châu Âu trước.
-Nguyên nhân sâu xa: là do những mâu thuẫn mới về quyền lợi, thị trường và thuộc địa tiếp tục nảy sinh giữa các nước đế quốc. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm cho những mâu thuẫn đó thêm gay gắt.
-Nguyên nhân trực tiếp: Hình thành hai khối đối địch: khối phát xít gồm Đức-Italia-Nhật Bản và khối Anh-Pháp-Mĩ.
Các nước lớn có trách nhiệm ngăn những cuộc chiến tranh và tránh những cuộc chiến tranh đó lan đến các nước nhỏ.
-Công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô đc tiến hành từ thời gian nào ?
Thủ phạm gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít, nhưng các nướcMĩ, Anh và Pháp phải chịu một phần trách nhiệm về sự bùng nổ cuộc chiến tranh.
- Vì thái độ cụ thể của các nước này: + Mĩ là nước giàu mạnh nhất, nhưng lại theo "chủ nghĩa biệt lập" ở Tây bán cầu, không tham gia Hội Quốc liên và không can thiệp vào các sự kiện ở bên ngoài châu Mĩ.
+ Anh và Pháp vừa lo sợ sự bành trướng của phát xít, vừa thù ghét chủ nghĩa cộng sản, nênkhông liên kết với Liên Xô để chống phát xít, mà thực hiện chính sách nhượng bộ phát xítđể đổi lấy hoà bình.
+ Tại Hội nghị Muyních (9-1938), không có Tiệp Khắc và Liên Xô tham dự, Anh và Phápđã kí một hiệp định trao vùng Xuy - đét của Tiệp Khắc cho Đức, để đổi lấy sự cam kết củaHítle về việc chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu.
- Như vậy, trước hành động xâm lược của liên minh phát xít (phe trục), các nước Mĩ, Anh và Pháp đều không hợp tác với Liên Xô để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, hơn nữa còn có hành động dung dưỡng chủ nghĩa phát xít
- Khủng hoảng kinh tế đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của TBCN, các nước Đức, Ý, Nhật tìm kiếm lối thoát bằng những hình thức thống trị mới – thiết lập chế độ phát xít….
- Quan hệ giữa các nước tư bản ngày càng chuyển biến phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập (Đức, Ý, Nhật) và (Mỹ, Anh, Pháp) và cuộc chạy đua vũ trang ráo riết đã báo hiệu nguy cơ một cuộc chiến tranh mới.
Chọn đáp án: A. Mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước đế quốc theo hệ thống Véc-xai Oa-sinh-tơn.
1. Chiến tranh thế giới thứ hai
Nguyên nhân sâu xa.
- Do mâu thuẫn giữa các nước tư bản khi thiết lập trật tự Véc-xai Oasinhton những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trật tự ấy, các nước tư bản thắng trận như Anh, Pháp, Mĩ đã thu được nhiều quyền lợi nhất trong đó có vấn đề thuộc địa.
- Trong khi đó, các nước bại trận mà điển hình là nước Đức lại bị thiệt hại rất lớn (bị tước đoạt hết thuộc địa, bị cắt một phần lãnh thổ, bồi thường chiến phí nặng nề…)vì vậy đã gây nên những bất bình từ phía các nước bại trận với những điều khoản mà các nước thắng trận đã quy định tại trật tự Véc-xai Oasinhton và âm mưu gây lại cuộc chiến tranh mới để “phục thù”.
2. Nguyên nhân trực tiếp.
- Do tác động của cuộc khủng hoảng Kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: sau khủng hoảng kinh tế, phe đế quốc chủ nghĩa chia làm hai khối đối lập là khối các nước tư bản dân chủ bao gồm Anh, Pháp, Mĩ và khối các nước phát xít gồm Đức, Ý và Nhật. Các nước tư bản phát xít bắt đầu châm ngòi lửa cho cuộc Chiến tranh thế giới bùng nổ.
- Năm 1931: Nhật tiến hành xâm lược Mãn Châu của Trung Quốc.
- Năm 1935, Đức công khai xóa bỏ hòa ước Véc-xai, tiến hành tổng động viên. Ý xâm lược Ê-ti-ô-pia và hình thành nên 3 lò lửa chiến tranh trên toàn thế giới.
- Năm 1937, các nước phát xít đã thiết lập trục phát xít Ber-lin – Rô ma – Tô-ki-ô và chuẩn bị tiến hành cuộc chiến tranh thế giới mới.
Như vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước phát xít là kẻ thù trực tiếp châm ngòi cho cuộc đại chiến thế giới nhằm phá vỡ trật tự Véc-xai Oasinhton để phân chia lại bộ mặt địa cầu và tiêu diệt Liên Xô.
CTTGT I
1. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh:
Chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: là sự phân chia lại thế giới của các đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến. Nguyên nhân theo phân tích của Lê-nin: sự lớn mạnh của Đế quốc Đức sau Chiến tranh Pháp-Phổ: những tham vọng thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này gặp phải sức phản kháng của các "đế quốc già" là Anh, Pháp và Nga. Đế chế Áo – Hung và Đế chế Ottoman đã suy yếu không còn đủ "tư cách" và vai trò để có ảnh hưởng trong khu vực Trung Âu, Balkans và Kavkaz. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng... Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một cuộc "chém giết lớn" để phân ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới có lợi cho kẻ thắng trên cơ sở những mất phần của kẻ thua.
2. Nguyên nhân trực tiếp :
Sự việc Đại công tước Franz Ferdinand của Áo – Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia tên là Gavrilo Princip ám sát tại Sarajevo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 được coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt nước tràn ly". Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia của các bên đã chín muồi và các bên tham chiến từ lâu đã chuẩn bị chiến tranh để giải quyết các mâu thuẫn đối kháng với nhau và phân chia lại thế giới.
- Ngày 01/08/1914 Đức tuyên chiến với Nga
=> Chiến tranh bùng nổ và nhanh chóng trở thành chiến tranh thế giới
- Ngày 28/07/1914 áo - Hung tuyên chiến với Xecbi
- Ngày 03/08/1914 Đức tuyên chiến với Pháp
- Ngày 04/08/1914 Anh tuyên chiến với Đức
Thế chiến III là một giả thuyết về một cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo của Thế chiến II (giai đoạn 1939-1945), đó là cuộcchiến tranh hạt nhân tàn phá thế giới vô cùng khốc liệt.
Cuộc chiến tranh này được dự đoán và được lên kế hoạch cho cơ quan quân sự và dân sự, và được văn học nhiều nước khai thác. Cuộc chiến tranh này do một nước mới thành lập và có nguy cơ trái đất bước sang giai đoạn mới
Với sự phát triển của cuộc chạy đua vũ trang, trước thời điểm xảy ra sự sụp đổ của Liên Xô và kết thúc của Chiến tranh Lạnh, một cuộc chiến tranh tận thế giữa Hoa Kỳ và Liên Xô được xem là có khả năng xảy ra. Đồng hồ ngày tận thế đã phục vụ như là một biểu tượng của Thế chiến III lịch sử từ Học thuyết Truman đã có hiệu lực vào năm 1947.
Trong cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, Thủ tướng Liên Xô Nikolai Bulganin đã gửi một công hàm cho Thủ tướng AnhAnthony Eden cảnh báo rằng "nếu cuộc chiến này không dừng lại nó mang nguy cơ biến thành một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba." "[2]
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 thường được cho là điểm lịch sử mà tại đó các nguy cơ chiến tranh thế giới III đã đạt mức gần nhất[3], và Robert McNamara tuyên bố rằng nếu không nhờ Vasili Arkhipov, người đã ngăn chặn một đợt phóng tên lửa hạt nhân từ tàu ngầm B-59 của Liên Xô tại thời điểm nóng bỏng nhất của cuộc khủng hoảng, chiến tranh thế giới III sẽ nổ ra, ông này đã phát biểu tại hội nghị khủng hoảng tên lửa Cuba Havana, "Một người được gọi tên là Vasili Arkhipov đã cứu thế giới." Ngày 26 tháng 9 năm 1983, một trạm cảnh báo sớm của Liên Xô dưới sự chỉ huy của Stanislav Petrov phát hiện sai tên lửa đạn đạo xuyên lục địa tiến vào Liên Xô. Petrov đã đánh giá chính xác tình hình là một báo động giả, và do đó không báo cáo thượng cấp của mình. Hành động của Petrov có thể đã ngăn chặn nguy cơ một cuộc xung đột hạt nhân, do là chính sách của Liên Xô vào thời điểm đó là đáp trả ngay bằng vũ khí hạt nhân khi phát hiện tên lửa đạn đạo phóng vào lãnh thổ của mình.
Trong Able Archer 83, một cuộc tập duyệt 10 ngày của NATO bắt đầu từ ngày ngày 2 tháng 11 năm 1983, Liên Xô đã chuẩn bị sẵn sàng lực lượng hạt nhân của họ và các đơn vị không quân đóng ở Đông Đức và Ba Lan được đặt ở tình trạng báo động. Một số sử gia tin rằng đây thực là thời điểm suýt nữa tạo ra sự khởi đầu cho thế chiến III.
Sau sự tan rã của Liên Xô, Mỹ đã cũng cố được vị trí bá chủ thế giới cho mình nhưng cuộc xung đột giữa Trung Quốc không ngừng gia tăng, đặc biệt khi lời của tiên tri Baba Vanga dự đoán Thế chiến III sẽ nổ ra vào năm 2010, thực chất cho đến nay vẫn chưa xảy ra cuộc chiến tranh quan hệ giữa Mỹ và Trung mà đơn thuần là cuộc bất ổn tại Bắc Phi và Trung Đông, xung đột trên biển Đông khi Trung Quốc khai thác đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, mâu thuẫn giữa các quốc giaĐông Nam Á với Trung Quốc và Đài Loan trên chủ quyền Trường Sa, xung đột trên Bán đảo Triều Tiên, sự đi lên của Ấn Độ, chương trình hạt nhân của Iran, Nhật Bản thay đổi hiến pháp tiến đến quân sự hóa, mâu thuẫn Thổ Nhĩ Kỳ và Nga, Araq Saudi và Iran, sự trỗi dậy của Nga. Đặc biệt trong thời gian này đã có thêm một quốc gia mới là Nam Sudan sau cuộc Trưng cầu dân ý độc lập miền Nam Sudan, 2011. Tuy sau đó, lời tiên tri của Vanga đã không thành hiện thực, song sự lo sợ vẫn rình rập thế giới.
Trong thời gian gần đây Tổng thống Hugo Chávez của Venezuela và Tổng thống Evo Morales của Bolivia lại muốn biến quốc gia của mình thành một Quốc gia Xã hội chủ nghĩa và quan hệ giữa Hoa Kỳ và Venezuela ngày càng căng thẳng.
Hiện tại Tình hình trên bán đảo Triều Tiên và việc Iran nghiên cứu Năng lượng hạt nhân cũng là một nguy cơ có thể xảy ra chiến tranh.
Ngoài ra nội chiến tại Syria tiếp diễn nhiều năm liền cũng là một nguy cơ lớn.
1. Nguyên nhân sâu xa.
- Do mâu thuẫn giữa các nước tư bản khi thiết lập trật tự Véc-xai Oasinhton những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trật tự ấy, các nước tư bản thắng trận như Anh, Pháp, Mĩ đã thu được nhiều quyền lợi nhất trong đó có vấn đề thuộc địa.
- Trong khi đó, các nước bại trận mà điển hình là nước Đức lại bị thiệt hại rất lớn (bị tước đoạt hết thuộc địa, bị cắt một phần lãnh thổ, bồi thường chiến phí nặng nề…)vì vậy đã gây nên những bất bình từ phía các nước bại trận với những điều khoản mà các nước thắng trận đã quy định tại trật tự Véc-xai Oasinhton và âm mưu gây lại cuộc chiến tranh mới để “phục thù”.
2. Nguyên nhân trực tiếp.
- Do tác động của cuộc khủng hoảng Kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: sau khủng hoảng kinh tế, phe đế quốc chủ nghĩa chia làm hai khối đối lập là khối các nước tư bản dân chủ bao gồm Anh, Pháp, Mĩ và khối các nước phát xít gồm Đức, Ý và Nhật. Các nước tư bản phát xít bắt đầu châm ngòi lửa cho cuộc Chiến tranh thế giới bùng nổ.
- Năm 1931: Nhật tiến hành xâm lược Mãn Châu của Trung Quốc.
- Năm 1935, Đức công khai xóa bỏ hòa ước Véc-xai, tiến hành tổng động viên. Ý xâm lược Ê-ti-ô-pia và hình thành nên 3 lò lửa chiến tranh trên toàn thế giới.
- Năm 1937, các nước phát xít đã thiết lập trục phát xít Ber-lin – Rô ma – Tô-ki-ô và chuẩn bị tiến hành cuộc chiến tranh thế giới mới.
Như vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước phát xít là kẻ thù trực tiếp châm ngòi cho cuộc đại chiến thế giới nhằm phá vỡ trật tự Véc-xai Oasinhton để phân chia lại bộ mặt địa cầu và tiêu diệt Liên Xô.
1. Nguyên nhân sâu xa. - Do mâu thuẫn giữa các nước tư bản khi thiết lập trật tự Véc-xai Oasinhton những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trật tự ấy, các nước tư bản thắng trận như Anh, Pháp, Mĩ đã thu được nhiều quyền lợi nhất trong đó có vấn đề thuộc địa. - Trong khi đó, các nước bại trận mà điển hình là nước Đức lại bị thiệt hại rất lớn (bị tước đoạt hết thuộc địa, bị cắt một phần lãnh thổ, bồi thường chiến phí nặng nề...)vì vậy đã gây nên những bất bình từ phía các nước bại trận với những điều khoản mà các nước thắng trận đã quy định tại trật tự Véc-xai Oasinhton và âm mưu gây lại cuộc chiến tranh mới để "phục thù".
2. Nguyên nhân trực tiếp. - Do tác động của cuộc khủng hoảng Kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: sau khủng hoảng kinh tế, phe đế quốc chủ nghĩa chia làm hai khối đối lập là khối các nước tư bản dân chủ bao gồm Anh, Pháp, Mĩ và khối các nước phát xít gồm Đức, Ý và Nhật. Các nước tư bản phát xít bắt ...