Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhân vật Nhĩ:
- Nhân vật được đặt trong tình huống đầy nghịch lí: cả đời mải mê đặt chân đến những mảnh đất xa xôi khắp nửa vòng trái đất, đến cuối đời khi bị cột chặt trên giường bệnh lại phát hiện ra vẻ đẹp bình dị của mảnh đất quê hương mình; đồng thời thấy được suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời.
- Trong ánh nhìn của Nhĩ khi cận kề cái chết, quê hương hiện lên với vẻ đẹp thanh bình, đơn sơ nhưng đầy thơ mộng. Đó là bãi cát, là dòng sông, nương ngô hay đóa bằng lăng…lần đầu tiên sau bao nhiêu năm anh chú ý tới.
- Những chi tiết tượng trưng cho sự sống của Nhĩ đang cạn dần: bông bằng lăng cuối màu đậm hơn, tảng đất bên bờ sông đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng…
- Cảm nhận của Nhĩ về vợ: Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên đang mặc tấm áo vá, ngón tay gầy guộc vuốt ve bên vai anh, Nhĩ nhận ra tình yêu thương, tảo tần và hi sinh của vợ, anh hiểu và thêm biết ơn về vợ.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Niềm xót xa xen lẫn ân hận.
→ Sự thức tỉnh những giá trị bị lãng quên khi con người đã trải qua nhiều sóng gió.
- Không thể thực hiện được ước muốn của mình, Nhĩ nhờ con trai. Nhưng con anh thực hiện một cách miễn cưỡng và vì mải chơi đã lỡ mất chuyến đò cuối cùng trong ngày.
→ Triết lí “con người ta trong đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”, cần trân trọng thực tại, trân trọng những vẻ đẹp bình dị ngay cạnh mình.
- Khoát tay ra hiệu con, nhoài người về phía cửa sổ như muốn thức tỉnh đứa con dứt mình ra khỏi những vòng vèo, chùng chình của cuộc đời để hướng tới những giá trị sống đích thực mà gần gũi quanh ta.
Nhĩ thuộc kiểu nhân vật tư tưởng trong tác phẩm có tính chất luận đề nhưng nhân vật vẫn hiện ra một cách sống động vì nhà văn đã tạo ra được một tình huống truyện tự nhiên, éo le qua đó phân tích tiến trình tâm lý nhận thức.
Nguyễn Minh Châu không nói nhiều về quá khứ của Nhĩ nhưng người đọc vẫn có thể hình dung Nhĩ là người thành đạt trong công việc, anh được đi nhiều nơi, được mở mang tầm mắt. Tuy nhiên trong hiện tại này anh lại rơi vào hoàn cảnh trớ trêu: Căn bệnh quái ác đã buộc anh phải nằm liệt giường, mọi sinh hoạt đều phải trông cậy vào vợ con. Được sống chậm lại, Nhĩ có thời gian để quan sát nhìn ngắm xung quanh. Anh bỗng nhận ra rằng ở cái Bến quê này có bao nhiêu điều đẹp đẽ quý giá mà bao nhiêu năm qua anh đã vô tình không nhận ra. Đầu tiên là những sắc hoa bằng lăng màu tím thẫm, rồi bầu trời, mặt sông... Tất cả đem đến cho anh một cảm giác bình yên. Đặc biệt lần đầu tiên Nhĩ nhận ra vợ mình mặc áo vá. Một người vợ hiền thảo, chăm chút cho anh không một lời ca than. Những đứa trẻ hàng xóm vô tư giúp Nhĩ "đi nửa vòng trái đất", lời trò chuyện của ông giáo Khuyến...Tất cả những điều tưởng như rất nhỏ bé, bình thường ấy đã làm cho Nhĩ xúc động. Anh như bừng tỉnh ra giữa một cơn mê dài. Lâu nay anh sống như một khách lạ ngay giữa gia đình và quê hương.
Hình ảnh những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông khi con lũ đầu nguồn đổ về gợi cho Nhĩ linh cảm về sự sống mong manh, ngắn ngủi của mình.
Nhĩ đã muốn từ đó mà sửa chữa sai lầm. Anh muốn biết nhiều hơn về những khoảng không gian của quê hương mà nay bước chân anh không thể đặt tới. Nhĩ đã tìm ra được một giải pháp là nhờ cậu con trai. Khi nghe thấy lời đề nghị của bố, Tuấn tỏ ra ngạc nhiên. Nó không thể hiểu ra ý định sâu xa của người cha. Nhĩ không chỉ muốn nó giúp anh mà còn muốn tự nó sớm tránh khỏi những sai lầm mà anh mắc phải dẫn đến những ân hận tiếc nuối lâu nay.
Bi kịch của Nhĩ đã bị đẩy lên cao theo mỗi bước chân của cậu con trai. Tuấn không chỉ giống Nhĩ về ngoại hình, và thật đáng buồn cậu con trai ấy lại giống anh cả về những sai lầm. Nó đã quên mất lời cha dặn vì có một thứ quyến rũ hơn: đó là phá cờ thế. Rất có thể nó đã không về kịp chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Hình như Nhĩ dự cảm được điều ấy, anh rút ra một triết lý vừa là cảm thông, vừa chứa đựng nỗi xót xa, chua chát: Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, khó tránh khỏi những sai lầm. Để nhận ra và sửa chữa nó, người ta phải mất một quãng thời gian dài và phải trả những cái giá rất đắt.
Ở cuối câu chuyện, ta bắt gặp một cảnh tượng thật đáng thương và đáng suy ngẫm. Mặt Nhĩ đỏ rựng lên, anh thu tất cả sức lực giơ bàn tay lên khoát khoát như ra hiệu cho một ai đó, như đang khẩn thiết ra hiệu cho một ai. Người ấy có thể là con trai anh nhưng người đọc cũng có thể hiểu rằng đây chính là cái khoát tay giục giã của chính Nguyễn Minh Châu dành cho chúng ta: hãy biết tìm về với những giá trị đích thực của cuộc đời.
Xây dựng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình và một tình huống đầy nghịch lý, đi sâu vào khám phá đời sống nội tâm, lựa chọn được những chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng, trần thuật bằng giọng văn vừa mang màu sắc trữ tình, vừa giàu tính triết lý.
Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới văn học nước nhà. Truyện ngắn của ông thường chứa đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Bến quê là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó. Bất kỳ ai đó khi đọc Bến quê đều tìm thấy những dư âm buồn, cảm giác bồi hồi, xúc động trào dâng. Một ít se sẽ buồn, một ít gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời. Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy. Bị cột chặt trên giuờng bệnh, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: Những bông bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối với anh. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót, bởi một người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, lại chưa từng đặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.
Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giường bệnh. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vào sự chăm sóc của vợ con. Sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa, anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình. Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Nhĩ – con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức hy sinh của vợ. Trước khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gụi xung quanh, kể cả người vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Vẫn chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Minh Châu tiếp tục đẩy cao trào nghịch cảnh lên hơn nữa trong tình huống truyện tiếp theo. Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn”. Với anh, bây giờ đó thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm”. Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con không hiểu ước muốn của cha, đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời người “Con người ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu”.
Ở cuối truyện, khi Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt mũi đỏ rựng, hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày? Và duờng như nó còn có ý nghĩa khái quát hơn: Muốn thức tỉnh mọi người vượt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững!
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức, suy ngẫm và cách xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng tác giả đã tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Ngòi bút miêu tả thiên nhiên đẹp, tinh tế, giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm nghiệm, suy ngẫm của tác giả đã góp phần không nhỏ tạo nên những ấn tượng riêng cho tác phẩm.
Những dòng cuối cùng của Bến quê khép lại nhưng dư âm từ những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con ngưuười dường như vẫn còn lan toả đâu đây, thức tỉnh trong ta sự trân trọng vẻ đẹp về những gì bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương, xứ sở. Ta có thể tìm thấy những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con người trong Bến quê. Vẫn còn lan tỏa đâu đó sự trân trọng vẻ đẹp bình dị, gần gũi của gia đình, quê hưuơng, xứ sở của tác giả. Tác phẩm không chỉ có giá trị vào buổi nó ra đời, âm hưởng của nó còn mãi trong lòng những người yêu văn học và những người yêu mến nét riêng của văn hóa người Việt – nơi cuối cùng phải trở về là quê hương.
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn “Bến quê” là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu chuyện là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội tâm phong phú đầy trải nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình tượng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức tỉnh sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã từng bôn ba, được tiếp xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới nhưng đến cuối đời lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra vùng đất bên kia sông- nơi bến quê quen thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh chưa một lần đặt chân đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần, chu đáo của vợ, anh mới nhận ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Và anh khát khao cháy bỏng được đặt chân một lần lên bến quê – bờ bãi bên kia sống, cái miền đất thật gần gũi mà bây giờ với anh trở nên xa lắc.
⇒ Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật Nhĩ
a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác chẳng hạn như : Cô Tô – Nguyễn Tuân, hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật ấy dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng. :
+ “Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối”. Đâu phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ Đặc biệt là anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê – đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông : Hình ảnh con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. Cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. Có cảm giác như lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm nghiệm : “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”. Phải chăng đây là tâm trạng của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Anh đang phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay “cũng chỉ cảm thấy như hôm qua”. Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình “vừa bay được một nửa vòng trái đất”. Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt, giật mình như bấm đốt ngón tay : “hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ?”. Trước những lời anh hỏi vợ và sự im lặng của Liên, ta cảm nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết đến dần với anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở trường hợp thứ hai.
b. Cảm nhận của Nhĩ về Liên (vợ anh).
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ.
- Anh nói với chị Liên : “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh”. Còn Liên đã trả lời : “Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này”..
- Nhìn vợ bước xuống cầu thang với tiếng bước chân “rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm”, anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : “Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.
- Thật là đau đớn với anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng đời còn trẻ với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật “anh ấy” (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn “Cỏ lau” : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im lặng ? Nhưng dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp của lương tâm bởi tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức nhận ấy đã đọng lại trong niềm khát khao cháy bỏng của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được bờ sông bên kia , với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ “cái bên kia sông” mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ : con người ta hãy đi đến cái “bên kia sông” của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới mơ ước kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, thật dung dị “cả trong những nét tiêu sơ”.
- Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã đến được. Cái vùng “mơ ước tâm tưởng” ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là “một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên”. Những hành động, cử chỉ của cậu con trai phải chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được điều anh nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận của riêng anh : “con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình”
- Đó là triết lí của một người đã trải nghiệm “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”, đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn trẻ vô tình bỏ qua những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của hai thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên mỗi chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần trân trọng những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên ta.
d. Hành động cuối truyện:
- Đây là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc. Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất khác thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm thía. Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Cho nên hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên “long lanh” một cách khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Thời gian không thể chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác ! Vì thế anh lấy hết sức “đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ” như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ:
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả. Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự nhiên mà sâu sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh Châu đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật Nhĩ. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để khắc hoạ tính cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.
- Từ những “nhận thức đau đớn và sáng ngời” của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí sâu sắc ở đời : “Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc chùng chình. Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê hương”.
- Mỗi chúng ta hãy luôn tự ngẫm về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của mình trong lúc chưa quá muộn.
- Vẻ mặt, hành động, cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện có vẻ rất khác thường: “Anh cố thu nhặt chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài nào đó”.
→ Hành động nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
→ Thức tỉnh mọi người vượt qua những thứ “chùng chình” “vòng vèo” của cuộc đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn gần gũi và bền vững.
A- Mở bài
Giới thiệu truyện ngắn Bến Quê và nhân vật Nhĩ.
- Giới thiệu xuất xứ, nội dung khái quát của truyện (tham khảo chú thích (*) sách giáo khoa). Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu xuất bản năm1985. ở truyện ngắn này cũng như nhiều truyện ngắn cùng thời của ông, ngòi bút nhà văn hướng vào cuộc sống thế sự, nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường, có khi nhỏ nhặt để phát hiện những chiều sâu của đời sống với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cách nhìn, cách nghĩ trước đây của xã hội và của chính tác giả.
- Giới thiệu nhân vật chính (tên nhân vật, tóm tắt hoàn cảnh của nhân vật, giới thiệu khái quát tâm trạng của nhân vật).
B- Thân bài
Lần lượt trình bày các nội dung
1. Hoàn cảnh đặc biệt của nhân vật. Nếu phần mở bài đã tóm tắt hoàn cảnh của nhân vật, thì phần thân bài không cần nêu ý này, hoặc có nêu, chỉ nêu thật ngắn gọn.
2. Suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ (nêu, phân tích qua các dẫn chứng)
a) Cảm nhận của Nhĩ về bước đi của thời gian, từ đó anh càng hiểu những ngày mình góp mặt với đời không còn nhiều nữa.
b) Cảm nhận của Nhĩ về tình yêu thương sự tần tảo và đức hi sinh của vợ. Anh nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn vợ và những giá trị gia đình mang đến cho anh.
c) Những phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của khoảng không gian ngay trước cửa sổ nhà mình trong buổi sáng đầu thu (mấy cây bằng lăng, bãi bồi bên kia sông Hồng) từ đó anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê - một nét nhỏ thân thuộc, vô cùng yêu dấu của quê hương nhưng nhiều khi chìm khuất khiến ta không để ý.
d) Niềm khao khát được một lần đặt chân sang bãi bồi bên kia sông Hồng và pha lẫn sự ân hận đau đớn của Nhĩ vì khao khát ấy giờ đây đã thành vô vọng. Hành động cuối cùng của Nhĩ có ý nghĩa gì ?
3. Đánh giá về nhân vật Nhĩ và những triết lí cuộc đời mà độc giả có thể nhận ra được từ nhân vật. Với những đặc điểm đã nêu trên, Nhĩ là người như thế nào ? Anh có đáng trách không ? Điểm đáng quý của anh là gì ? Qua nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu muốn nói gì với người đọc ?
C- Kết bài
- Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật
- Thành công của nhà văn khi xây dựng hình tượng nhân vật Nhĩ.
So sánh về cách trần thuật và xây dựng nhân vật của hai tác phẩm tiêu biểu: Lão Hạc, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng
Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng | Lão Hạc | |
Cách trần thuật | Trần thuật theo hành trạng, tên tuổi, các việc làm, con cháu liên tục | Biến hóa đa dạng, châm đóm hút thuốc rồi kể chuyện bán chó |
Lời văn | Đối thoại, thuật lại | Lời đối thoại: trực tiếp |
Cách miêu tả nhân vật | Miêu tả giản lược, chỉ kể sự việc | Miêu tả kĩ hình dáng, cử chỉ, ngôn ngữ, nội tâm nhân vật |
Mối quan hệ giữa các nhân vật | Mối quan hệ giữa các nhân vật được tạo lập trên cơ sở giải quyết tình huống | Nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác được thể hiện bằng hành động, thái độ, cách biểu lộ tình cảm |
Điểm nhìn trần thuật | Điểm nhìn toàn tri của tác giả, người kể ở ngôi thứ ba | Điểm nhìn của nhân vật ông giáo, ngôi kể thứ nhất |
Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, truyện Bến quê gửi gắm những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương.
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm.
2. Thân bài:
- Hoàn cảnh của nhân vật Nhĩ: anh bị bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, mọi sự phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ, con.
- Cảm nhận của nhân vật về vẻ đẹp của thiên nhiên: cảm nhận bằng những cảm xúc tinh tế: từ những bông hoa bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng...
- Cảm nhận về tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của Liên: tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai...
- Niềm khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông:
+ Sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà sâu xa của đời sống, những giá trị thường bị người ta lãng quên, vô tình, nhất là lúc còn trẻ, khi lao theo những ham muốn xa vời.
+ Sự thức nhận này chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, đã thấm thía những sướng vui và cay đắng.
+ Cùng với sự thức tỉnh ấy thường là những ân hận xót xa.
+ Nhĩ chiêm nghiệm được quy luật phổ biến của đời người: “con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều chùng chình và vòng vèo của cuộc sống”
3. Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Nhĩ và sự trân trọng những giá trị bền vững của cuộc sống.