Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
MÌNH LÀM NGẮN NHẤT RỒI ĐÓ,BẠN MUỐN CẮT SAO THÌ CẮT!!
KHU DI TÍCH THÀNH CỔ LOA GIỚI THIỆU CHUNGCổ Loa (Loa Thành) là di tích kinh thành của đất nước Âu Lạc từ thế kỷ 3 TCN và nhà nước của vua Ngô Quyền thế kỷ 10 SCN. Hiện nay quần thể di tích này thuộc địa phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ Sông Hồng, là đầu mối quan trọng của cả đường bộ và đường thủy nên dã được lựa chọn làm kinh đô thời bấy giờ. Thành Cổ Loa là một khu vực đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng – một nhánh lớn của sông Hồng, nối liền với sông Cầu nhưng con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp nên hiện nay chỉ còn là một con lạch nhỏ. Xã Cổ Loa lúc đó có tên là Phong Khê – một vùng đồng bằng trù phú, đông đúc dân cư nên việc rời đô từ Phong Châu về đây đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của cư dân Việt cổ.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn và bậc nhất và cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Theo truyền thuyết Thành Cổ Loa có tới 9 vòng thành xoáy trôn ốc nhưng theo khai quật khảo cổ thì hiện nay chỉ còn dấu vết của 3 vòng thành. Trong đó vòng thành nội trong cùng có thể được làm sau này, vào thời Vua Ngô Quyền. Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, rộng từ 10-30m.
Hiện nay Cổ Loa được công nhận là một trong 21 khu du lịch Quốc gia, trong khu di có các công trình như Đền Thượng, Giếng Ngọc, Đình Cổ Loa, Đền thờ An Dương Vương… mở cửa quanh năm để phục vụ khách du lịch và người dân tham quan.
Xem thêm: Kinh nghiệm Du lịch Chùa Hương
Truyền thuyết và thực tế về thành Cổ LoaThành Cổ Loa gắn liền với truyền thuyết về việc Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy giúp bày cách xây thành, về chiếc nỏ thần được làm từ móng chân rùa thần và về mối tình bi thương của Trọng Thủy – Mỵ Châu.
Tương truyền rằng thành Cổ Loa xây nhiều lần mà vẫn đổ, sau có Thần Kim Quy hiện lên giúp đỡ An Dương Vương thì thành mới đứng vững. Qua nhiều lần nghiên cứu khảo cổ thì các nhà khảo cổ đã tìm ra cách mà An Dương Vương giúp thành đứng vững chính là chèn một lớp đá vào chân tường thành, ở dưới sâu lòng đất vì đây là một khu vực đất yếu.
Sau khi xây thành xong, Thần Kim Quy đã tặng cho An Dương Vương một chiếc móng rùa thần của mình để làm nỏ thần, nỏ thân một phát bắn ra cả trăm cung tên khiến quân địch vô cùng hoảng sợ và đây chính là vũ khí giúp An Dương Vương giữ vững bờ cõi. Nhưng thực tế đây chính là “nỏ Liên Châu” do tướng quân Cao Lỗ là người phát minh ra. Nỏ này có một bộ phận gọi là “chốt giữ liên hoàn” để có thể 1 lần bóp cò mà nhiều mũi tên bay ra cùng lúc. Cùng với cấu tạo của Thành Cổ Loa là vòng xoáy trôn ốc, các ụ công sự được sắp xếp so le nhau nên các mũi tên từ các hướng bay ra cũng khiến quân địch vô cùng hoảng sợ.
Lúc này, Triệu Đà không tìm được cách nào để chiến thắng được An Dương Vương nên đã tìm cách đánh từ trong đánh ra. Triệu Đà giả hòa với An Dương Vương và xin kết thân cho con trai mình là Trọng Thủy với con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu. Vì An Dương Vương ỷ vào sức mạnh nỏ thần nên đã chủ quan, không ngờ Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần và An Dương Vương đã bị quân của Triệu Đà tiến đánh. Trong lúc nguy cấp, An Dương Vương đưa Mỵ Châu lên lưng ngựa và cùng bỏ chạy. Nhưng vì quá yêu và quá tin Trọng Thủy nên trên đường bỏ chạy Mỵ Châu đã rải lông ngỗng để Trọng Thủy có thể tìm thấy mình. Cuối cùng khi chạy đến bờ biển thì An Dương Vương mới biết chính con gái mình đã dẫn đường cho giặc đuổi theo nên đã rút kiếm chém đầu Mỵ Châu còn mình theo Thần Kim Quy lặn xuống biển sâu. Trọng Thủy vì quá đau khổ nên đã nhảy xuống giếng trong thành Cổ Loa tự vẫn.
Sự thực về mối tình đầy ngang trái này của Trọng Thủy và Mỵ Châu thì đến nay vẫn chưa có tài liệu nào có thể làm rõ được nhưng phải nói rằng đây là một bài học cảnh giác, gắn liền với lịch sử giai đoạn này của Nhà nước Âu Lạc
Đền thờ An Dương Vương hay còn được gọi là đền Thượng nằm ở trung tâm Thành trong, được coi là nơi Vua Thục Phán trước kia ở. . Đền Thượng mọc lên trên một gò đất hình đầu rồng, hai gò hai bên là hai cánh rừng. Phía dưới có hai hố tròn là mắt rồng. Trước mặt đền Thượng là một hồ nước lớn, bên trong hồ có Giếng Trọng Thủy (Giếng Ngọc) – nơi truyền thuyết cho rằng Trọng Thủy đã gieo mình xuống đây tự vẫn.
Hiện không rõ đền được xây dựng từ năm nào nhưng lần sửa chữa xa nhất vào năm 1687 và có một lần trùng tu lớn nhất vào năm 1893.
Trong đền còn giữ được một số di vật như: tượng An Dương Vương bằng đồng, đúc vào năm 1897, hai con ngựa hồng – bạch làm vào năm 1716, các món đồ bằng đồng, sứ, gỗ, vải…
Trước cổng để có 2 con rồng đá, thân uốn lượn, tay vuốt râu, được chạm khắc hết sức tinh tế của những người thợ thủ công Việt Nam thế kỷ 17.
Đền có nhiều cửa ra vào, khu vực chính giữa là điện thờ Vua, nằm phía trong ở hai bên là nơi thờ Hoàng Hậu và thờ Mẫu.
2. Ngự triều di quy – Đình Cổ LoaQua cổng làng Cổ Loa cũng là cổng Thành Trong là tới Ngự triều di quy hay còn được gọi là Ngự Đình hay Đình Cổ Loa. Đây là một ngôi đình được chuyển từ nơi khác về, và dựng lại hồi cuối thế kỷ 18 ngay trên khu đất tương truyền là nơi xa xưa vua Thục Phán thiết triều. Trong đình vẫn còn tấm hoành phi ghi bốn chữ “Ngự triều di quy”. Giữa đình, còn bức cửa võng chạm hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) và tứ quý (đào, cúc, trúc, mai). Bức chạm khá tinh tế và được thếp vàng rực rỡ. Đình có kiến trúc vững chãi, bề thế và tại đây trưng bày nhiều di tích khảo cổ niên đại hàng nghìn năm có giá trị quan trọng ví dụ như những mũi tên bằng đồng từ thời An Dương Vương.
Am Mỵ ChâuBên trái Đình Cổ Loa là Am thờ Mỵ Châu (Am Bà Chúa), dân làng còn gọi đây là mộ Mỵ Châu. Đây chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa nghìn tuổi với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm. Căn phòng trong cùng có tượng công chúa Mỵ Châu. Đây là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Truyền thuyết kể rằng sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.
Chùa Bảo Sơn hay Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn Tự)Từ Am Mỵ Châu đi sâu vào phía trong là chùa Bảo Sơn, trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị to lớn như: bức cốn tứ linh từ thế kỷ 19, 134 bức tượng Phật được bài trí ở chính điện, hậu cung, hành lang và nhà Mẫu, 5 tấm bia đá từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, 2 đại hồng chung đúc vào năm Gia Long thứ 2 (năm 1803), một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị khác.
Đền thờ Cao LỗCao Lỗ (? – 179 TCN) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê người Gia Bình, Bắc Ninh. Ông là người phát minh ra “nỏ liên châu” bắn được nhiều mũi tên cùng một lúc. Ông cũng chính là người khuyên An Dương Vương dời đô xuống vùng đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người thiết kế, chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Đền thờ Cao Lỗ hiện được dựng ở nhiều nơi như quê ông ở Bắc Ninh, hay ở Ái Mộ và ngay trong thành Cổ Loa cũng có đền thờ của ông.
Đền thờ nhỏ, có dựng tượng Cao Lỗ bắn nỏ giữa ao nước trước đền. Trong đền còn lưu giữ nhiều mũi tên đồng mà các nhà khảo cổ học đã khai quật được.
Đền thờ Cao Lỗ chỉ cách Đền thờ An Dương Vương khoảng 150m
Kết hợp đi Cổ Loa và Đền Gióng Sóc Sơn trong 1 ngày
Các cửa thành và các Miếu thờ Thần trấn các cửa thành.Ngay trên đường vào khu vực Thành Cổ Loa các bạn sẽ nhìn thấy Cửa Trấn Nam và Miếu thờ Thần trấn cửa Nam. Qua cửa này rẽ tay phải chính là Đền thờ Cao Lỗ.
Cửa trấn Bắc và Miếu thờ Thần trấn cửa Bắc nằm ở vòng thành thứ 3, cách Trung tâm Cổ Loa khoảng 5km.
Cửa trấn Tây và Miếu thờ Thần trấn cửa Tây cũng nằm ở vòng thành thứ 3 nhưng riêng cửa trấn Đông thì đã không còn qua quá trình xây dựng khu dân cư ở đây
Các di chỉ khảo cổCổ Loa là một khu vực dày đặc các di chỉ khảo cổ như: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, Xóm Nhồi, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực… và các nhà khảo cổ học đã khai quật được ở đây hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí, vũ khí bằng đồng…
Cổ Loa là một vùng đất gắn liền với truyền thuyết Trọng Thủy-Mị Châu, với quá trình dựng, giữ nước cũng như chống giặc ngoại xâm của Thục Phán An Dương Vương. Một vùng đất ngoại thành Hà Nội không chỉ có những khu di tích lịch sử mà còn là nơi sở hữu phong cảnh đẹp tuyệt vời. Bài viết “Kinh nghiệm du lịch thành Cổ Loa đầy đủ và chi tiết nhất” này dulichfun gửi tặng đến những bạn đang nung nấu ý định tới đây.
Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945. Ðây là những đợt di cư lẻ tẻ, bao gồm một số hộ gia đình đồng tộc.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
rong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm ghi lại bài ca dao về 36 phố Hà Nội, có câu như sau :
Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Đóng vai một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu (khoảng 2 đến 3 trang A4) về Lịch sử 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội.
Trả lời:
Xin kính chào mọi người, tiếp theo tôi xin được giới thiệu cho quý khách về phố cổ Hà Nội.
Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 sáu phố ở Hà Nội như sau:
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Khu “Hà Nội 36 phố phường” là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ. Đây là một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uất này đã được hình thành từ thời Lý – Trần, nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra đến sát sông Hồng. Đầu đời đời Lê, trong sách Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến tên một số phường nghề tại đây. Dưới thời Lê, đặt phủ Phụng Thiên gồm hai huyện là Vĩnh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn tổng Túc của huyện Thọ Xương là Tiền Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La có trổ các cửa ô. Thời Lê, giữa khu này có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đó hoàn toàn bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông. Thời Lý – Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhất kinh thành. Đến đời Lê, dần dần đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu. Thời Pháp thuộc, sau khi lấp toàn bộ các đầm hồ, khu phố được chỉnh trang, người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chợ nhỏ được giải tỏa để lập chợ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ – Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua đây. Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhất của Hà Nội. Tuyến phố đi bộ cũng được mở tại đây.
Đặc trưng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Các thuyền buôn có thể vào giữa phố để buôn bán trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ “Hàng” đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng.
Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, phố Thuốc Bắc, … Ngoài ra một số phố tuy không giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại hàng hóa, như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, phố Hàng Buồm bán bánh kẹo, phố Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch…
* Phố Hàng Mã ngày xưa chuyên buôn bán đồ vàng mã để thờ cúng, bao gồm tiền giấy âm phủ, vàng giấy âm phủ, sau mở rộng thêm các tượng giấy hình các quan, hình nhà cửa… để đốt cúng cho người âm. Ngày nay phố Hàng Mã tập trung nhộn nhịp vào các dịp lễ, tết Trung Thu, Nguyên Đán với các mặt hàng phong phú về đồ chơi. Ngoai ra, tại đây cũng là nơi bán các hàng trang trí phông màn đám cưới với các hình cắt cô dâu, chú rể làm tự bọt xốp nhiều màu sắc.
* Liên quan đến phố Hàng Mã còn có phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai phố xưa: phố Hàng Mã và phố Hàng Mây. Đoạn phố Hàng Mây nằm giáp phố Hàng Buồm, trên bờ sông Nhị, nơi tập trung thuyền bè miền ngược chở các mặt hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa…
* Phố Hàng Bạc do ông Lưu Xuân Tín được nhà vua cho phép mở lò đúc bạc thành nén cho triều đình[2], kéo người trong họ hàng và nguời làng Trâu Khê (huyện Bình Giang – Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường đúc ở số nhà 58 Hàng Bạc.
* Phố Hàng Đào là nơi buôn tơ, bán vải vóc (chữ vải điều chỉ màu đỏ được đọc chệch thành chữ đào)
* Phố Hàng Lược nối từ phố Hàng Cót đến phố Chả Cá, vốn là nơi có nhiều nhà buôn bán lược: lượcgỗ, lược sừng và sau này là lược nhựa cất cho các cửa hàng xén bán cho các cô làm đồ trang điểm
* Phố Hàng Chai không phải là nơi sản xuất, buôn bán chai lọ; phố này là một đoạn ngõ nhỏ nối phố Hàng Rươi và Hàng Cót, đây là nơi tập trung dân nghèo làm nghề “ve chai”, chuyên thu lượm các đồ phế liệu, đồ bỏ (rác)
* Phố Hàng Gà chạy từ phố Hàng Điếu đến phố Hàng Cót, vốn là nơi tập trung các cửa hàng bán đồ gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây…
* Phố Hàng Chĩnh được người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), vốn thông ra bờ sông, là bến đậu các thuyền chở vại, chậu bằng sành của làng Phù Lãng, nồi đất, chum vại, tiểu sành từ Hương Canh, bằng gốm từ Thổ Hà
* Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp có tên chung là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Đoạn Hàng Đồng và Hàng Mã trước thuộc thôn Yên Phú, có nghề gốc bán đồ đồng (chứ không phải đồ đồng nát) như mâm, nồi, đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ…
Có phải viết hết 36 phố không hay tóm tắt vài phố thôi bạn?
Em có suy nghĩ là: Những anh hùng đã có công đứng lên, dấy binh chống lại các thế lực phong kiến, cố gắng đem lại tự do độc lập cho dân tộc thì con cháu đời sau cần có thái độ biết ơn, tôn trọng những công lao mà họ đã đóng góp vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhớ tick cho mk nha!!!
- Từ thế kỉ |, ở Giao Châu, việc cày, bừa do trâu, bò kéo đã phổ biến.
- Đến thế kỉ |||, nhân dân ven biển đã dùng lưới sắt để khai thác san hô.
- Người ta đã biết trồng hai vụ lúa trong một năm: vụ chiêm và vụ mùa, lúa rất tốt. Trồng nhiều loại cây.
- Để chống sâu bị châm đục thân cây cam, người ta nuôi loại kiến vàng, cho làm tổ ngay trên cành cam, đó là kĩ thuật “dùng côn trùng diệt côn trùng”. Nuôi nhiều gia súc.
- Từ thế kỉ |, ở Giao Châu, việc cày, bừa do trâu, bò kéo đã phổ biến.
- Đến thế kỉ |||, nhân dân ven biển đã dùng lưới sắt để khai thác san hô.
- Người ta đã biết trồng hai vụ lúa trong một năm: vụ chiêm và vụ mùa, lúa rất tốt. Trồng nhiều loại cây.
- Để chống sâu bị châm đục thân cây cam, người ta nuôi loại kiến vàng, cho làm tổ ngay trên cành cam, đó là kĩ thuật “dùng côn trùng diệt côn trùng”. Nuôi nhiều gia súc.
Bạn tham khảo ở đây nha Lê Võ Khánh Ngân
Câu hỏi của Tớ Là Lờ - Lịch sử lớp 6 | Học trực tuyến
Ngô Vương , là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Sinh năm 897 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng"[1]. Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.
Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua"[1], là vị Tổ trung hưng[2] của Việt Nam.