Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Lời thoại của nhân vật trong các đoạn trích trên có những đặc điểm của ngôn ngữ nói là:
a.
- Sử dụng khẩu ngữ, được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.
- Sử dụng thán từ.
- Kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ: nụ cười, cử chỉ.
- Sử dụng đa dạng về ngữ điệu.
b.
- Sử dụng từ ngữ địa phương.
- Sử dụng đa dạng về ngữ điệu.
- Kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ: nụ cười, cử chỉ.
BPTT: So sánh
Tác dụng: Cho người đọc thấy rõ tên của 10 cô gái, các cô có những cái tên vô cùng thân thuộc.
Nêu rõ quan điểm đồng tình hay không đồng tình, lý giải hợp lí, thuyết phục.
(HS lựa chọn nêu quan điểm và lí giải được quan điểm đã nêu – GV linh hoạt khi chấm bài)
Tham khảo: ??
I. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc TửGiới thiệu khái quát về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ""Đây thôn Vĩ Đã" là một bài thơ ấn tượng của Hàn Mặc Tử được ông viết năm 1938, lấy cảm hứng từ mối tình với Hoàng Cúc - cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống. Với cảm xúc dạt dào, chân thành và cái tài làm thơ được gửi gắm khéo léo, Hàn Mặc Tử cùng tác phẩm đã tạo được nhiều dấu ấn đẹp đẽ trong trái tim biết bao con người yêu văn, say thơ từ thuở đó đến bây giờ.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm:
a. Tác giả:
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, các bút danh là Hàn Mặc Tử, Phong Trần, Lệ Thanh.Qua ông ở Đồng Hới, Quảng Bình. Gia đình viên chức nghèo, theo Đạo Thiên chúa.Năm 1940, ông mất ở Tuy Hoà khi mới 28 tuổi.Cuộc đời Hàn Mặc Tử bất hạnh khi ông mắc bệnh hiểm nghèo giữa tuổi thanh xuân, cuộc đời ông ngắn ngủi, chết trong cô đơn ở trại phong Tuy Hoà.Về con người, Hàn Mặc Tử với thân xác bị phá hủy bởi bệnh tật đến tàn tạ, thống khổ nhưng tâm hồn lại khao khát hướng về con người, cuộc đời.Sáng tác của Hàn Mặc Tử mang hai tiếng nói chính là tiếng nói của máu cuồng và hồn điên tạo nên sự kỳ dị, ma quái và tiếng nói của yêu thương, khao khát tạo nên nét trong trẻo, thanh khiết.b. Tác phẩm:
In trong tập "Thơ điên", sau đổi tên thành "Đau thương".Sáng tác năm 1938, khi Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo sống cách ly để chữa bệnh. Ông lấy cảm hứng từ mối tình của Hoàng Cúc - một cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống.2. Phân tích tác phẩm:
a. Khổ 1:
Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ" là một câu hỏi đa sắc điệu, giống như lời hờn trách nhẹ nhàng hay lời mời mọc tha thiết.Hai chữ "không về" là một uẩn khúc bởi "không về" chứ không phải "chưa về" vì "chưa về" còn mở ra cơ hội còn "không về" là khao khát nhưng không về được.chữ "anh" trong câu thơ gợi ta hiểu nhân vật đang tự phân thân hỏi chính mình, đang khao khát trở về Vĩ Dạ.Cụm từ "nắng hàng cau" gợi hình ảnh những tia nắng đầu tiên của ngày mới chiếu qua thân cau cao vút, thẳng tắp, phát ra ánh lung linh, tinh khôi. "Nắng mới lên" một lần nữa nhấn mạnh đấy là nắng sớm, thứ ánh nắng thiếu nữ vừa rạng rỡ vừa trong trẻo, điệp từ "nắng" đã gợi nên vẻ đẹp thanh khiết của ánh sáng.Từ "mướt" là nhãn tự câu thơ, ánh lên vẻ đẹp mượt mà, óng ả của khu vườn với cây lá xanh non tràn đầy sức sống. Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" đã gợi ra sắc xanh ngời lên trong vẻ đẹp lộng lẫy, cao sang. Nếu hai câu trên điệp hai lần từ "nắng" thì đến hai câu này nhà thơ hai lần nhấn vào sắc xanh. Thi sĩ không tả màu mà gợi sắc, từ "mướt quá" đã tột cùng hoá vẻ đẹp thôn Vĩ, làm bật lên vẻ đẹp thanh tân của khu vườn,.đó là ngôn ngữ của những cảm xúc, ấn tượng, của niềm tha thiết ngắm nhìn thôn Vĩ.Sắc diện con người hiện lên với mặt chữ điền cân đối hài hòa, "lá trúc che ngang mặt chữ điền" gợi ra vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng, đậm chất Huế vì nó hiện lên thấp thoáng, ẩn hiện sau cành lá trúc che ngang. Thủ pháp cách điệu hóa làm cho con người hiện ra giữa vườn thôn Vĩ trong vẻ đẹp thanh tú.Bức tranh thôn Vĩ trong hoài niệm của tác giả hiện ra mang vẻ đẹp tươi sáng với nắng thanh khiết, vườn thanh tân, người thanh tú, tất cả gợi lên một vẻ đẹp thánh thiện. Với Hàn Mặc Tử, hình ảnh khu vườn là hình ảnh thực mang màu sắc tượng trưng, khu vườn mơ ước, là hiện thân của cái đẹp thánh thiện, quý phái mà nhà thơ khao khát hướng tới.b. Khổ 2:
Hình ảnh thơ mang tính chất siêu thực, nhà thơ phá vỡ logic hiện thực: gió thổi, mây bay, ngắt nhịp thơ từ câu có nhịp 4/3 chia thành nhiều câu nhỏ.Nhân hoá: gieo nỗi buồn vào lòng sông, biến dòng sông ngoại cảnh thành dòng chảy tâm trạng.Cảnh ở đây không còn là cảnh thực mà thấm đẫm tâm trạng, cảm xúc. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác, mặc cảm chia lìa bắt nguồn từ cảnh ngộ riêng của nhân vật trữ tình, tâm hồn tràn đầy khao khát mà sức sống cạn kiệt dần.Câu hỏi tu từ "Thuyền ai đâu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?": cảnh chuyển từ hư thực thành mộng ảo, hình ảnh một con thuyền chở đầy trăng trôi trên dòng sông trăng về một bến trăng xa xôi nào đó, thuyền ở đây là "thuyền ai" gợi sự mơ hồ, xa cách. Hình ảnh "bến sông trăng" như thuộc về một cõi khác chứ không phải bến trần gian trong đời thực, cả không gian tràn ngập ánh trăng, cái thực cái ảo đồng điệu, vừa gần gũi vừa xa vời, tất cả đều lung linh như ánh trăng, ánh sáng của tình yêu và cái đẹp hiện diện như một điểm tựa an ủi, cứu rỗi, một khao khao khát không thể đạt được.Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" vọng lên khắc khoải, da diết như một bức thông điệp về một kiếp sống ngắn ngủi, thể hiện tâm trạng mong ngóng và âu lo, dường như dòng sông ở đây là dòng đời phiêu tàn còn con thuyền là tình yêu xa xôi và bến trăng là bến bờ hạnh phúc hư ảo.c. Khổ 3:
Các từ "sương khói", "đường xa" gợi ra không gian huyền hoặc bất định, đọng lại chỉ là một vùng sương khói hư ảo, hình ảnh con người xa dần mờ dần rồi trở thành hư ảnh trong cảm nhận của nhân vật trữ tình.Đầu tiên nhà thơ nói "khách đường xa" - con người có thật nhưng xa xôi rồi đến "em" - "áo trắng": hư-thực và chập chờn, cuối cùng là "nhân ảnh"- con người hiện diện như một ảo ảnh xa mờ.Câu hỏi tu từ kết thúc bài "Ai biết tình ai có đậm đà?" đượm nỗi hoài nghi, đại từ phiếm chỉ "ai" được sử dụng rất tài tình gợi ra hình ảnh thơ đa nghĩa với những cách diễn giải khác nhau: "ai" ở đây có thể là giai nhân, là con người hoặc cũng có thể là cõi đời đang hiện diện ngoài kia mà nhà thơ không thể nào đến gần, cảm nhận và nắm bắt. "Tình ai" có thể hiểu là tình yêu, rộng hơn là tình đời, tình người đối với thi nhân, giờ đều trở nên huyền hoặc, khó xác định.III. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật."Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về một miền quê của đất nước đồng thời là tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống con người .Ngôn ngữ sử dụng trong bài trong sáng, tinh tế và đa thanh. Hình ảnh thơ gợi cảm, sinh động, đậm màu sắc tượng trưng siêu thực. Cấu trúc ba câu hỏi ở ba khổ thơ gợi cảm xúc đi từ khao khát đến phấp phỏng, âu lo, từ hi vọng đến hoài nghi, xót xa, mỗi câu hỏi trong khổ thơ như gõ vào cánh cửa cuộc đời thể hiện niềm thiết tha với cuộc sống ở tác giả.
Bảng tổng hợp về sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình | |
1. Dấu hiệu nhận biết sự kết hợp. | - Sử dụng ngôn ngữ tự sự, trữ tình. - Diễn biến sự việc. |
2. Nội dung tự sự | - Có sử dụng các yếu tố tự sự: yếu tố kể chuyện, thuật lại các sự việc diễn ra xung quanh, diễn biến sự việc… |
3. Yếu tố trữ tình | - Có sử dụng các từ ngữ bộc lộ tình cảm, cảm xúc. - Thể hiện cái tôi của tác giả qua cách thể hiện từ ngữ trong văn bản. |
4. Tác động của sự kết hợp. | - Giúp cho văn bản trở nên sinh động, hấp dẫn. - Thể hiện được hoàn chỉnh, sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên mà tác giả muốn nhắc đến. - Bộc lộ được rõ nét về tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong văn bản. |
Bạn tham khảo nhé !!
Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:
" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"
Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.
"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"
Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.
Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".
"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.
Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.
Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.
Anh/chị tham khảo :
Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:
" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"
Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.
"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"
Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.
Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".
"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.
Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.
Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.
chao co